Trần Hữu Hiệp
Việc nhiều người dân
của “Vựa lúa quốc gia” miền Tây Nam Bộ thích ăn gạo sóc từ Campuchia, ngon cơm,
giá cao hơn gạo Việt là có thật. Gần đây, lại có thêm thông tin giá gạo xuất khẩu 5% tấm của nước láng giềng này cao hơn gạo cùng loại của nước ta 75 USD/tấn. Thực trạng đó đang đặt
ra nhiều vấn đề về thiết kế “hệ điều hành”, “định vị, định danh gạo Việt” trước
thách thức mới.
10 năm trước, ai cũng nghĩ, Campuchia chỉ đủ sức trồng lúa để ăn, nhưng trong 3-4 năm tham
gia xuất khẩu gạo, nước này đã có hệ thống khách hàng ở 34
quốc gia từ Á sang
Âu. Trong khi Việt Nam vướng “bẫy thu nhập trung bình”, thì “người bạn hàng mới”
này, tuy xếp vào nhóm nước kém phát triển, nhưng được hưởng nhiều ưu đãi về thuế. Chỉ riêng khoản
này, đã “tiết kiệm” cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của họ khoảng
195 USD/tấn.
Nhưng
quan trọng hơn, trong khi VN loay hoay, thì Campuchia và Myanmar đã “âm thầm tiến” với những bước
đi vững chắc, có
chiến lược và nhanh chóng xâm nhập các thị trường khó
tính. Những “anh lính mới” này đang trở thành
“đối thủ” rất đáng được kính trọng, ít nhất là ở phân khúc thị trường gạo ngon
mà việc dân miền Tây thích ăn gạo sóc và giá gạo xuất khẩu hơn hẳn gạo Việt là
một thí dụ.
Có thể người ta cho rằng, việc giá gạo xuất khẩu của các quốc gia hơn
thua nhau từng thời điểm là chuyện thường ngày của thị trường. Gạo Việt có lúc
cũng bán giá cao hơn gạo Thái, nhưng đâu có qua được người Thái. Và, cho dù
Campuchia và cả Myanmar có nổi lên như một hiện tượng, thì với vài trăm ngàn đến
hơn một triệu tấn gạo xuất khẩu mỗi năm, khó sánh với cường quốc xuất khẩu gạo
Việt Nam, luôn trong “top 3” suốt hơn ¼ thế kỷ qua với 7-8 triệu tấn gạo xuất
khẩu/năm, chiếm hơn 20% thị phần xuất khẩu gạo thế giới, nên so sánh là khập
khiễng!
Không ai có thể phủ nhận kỳ tích của hạt gạo Việt qua 30 năm đổi mới. Từ một
nước thiếu đói ở thập niên 80 thế kỷ trước, Việt Nam đã nhanh chóng vươn lên vị trí cường
quốc XK gạo. Năng
suất, sản
lượng lúa gạo liên tục tăng trưởng nhanh. Những thành công đó không chỉ góp phần
quan trọng ổn định xã hội, tạo nền tảng vững chắc phát triển nông thôn mà còn
“cứu nguy” cho kinh tế đất nước ở những giai đoạn khó khăn.
Nhưng
đó là kỳ tích đã qua. Thành tích trong quá khứ, không phải là một đảm bảo chắc
chắn cho thành công trong tương lai. Hạt gạo Việt với chính sách và đối sách xuất
khẩu “phập phù” đang đứng trước nhiều thách thức mới. Thách thức không chỉ là mối
đe doạ do biến đổi khí hậu, nước biển dâng, mà trực tiếp là từ tư duy hoạch định
chính sách, do kết nối cung - cầu yếu kém; người trồng lúa ngày càng nghèo
đi, tạo ra bất công trong phân công lao động.
Thách
thức ngay trong việc định danh hạt gạo Việt trên thương trường quốc tế. Cho đến nay, VN vẫn
chưa có một thương hiệu gạo mạnh. Nhiều mặt hàng gạo xuất khẩu chỉ mang tên gọi
chung là gạo 5%, 25% tấm. Càng nghịch lý hơn, khi gạo Việt vẫn còn phải “mặc
áo” các lọai gạo nước ngoài.
Mới đây, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải vừa có kết luận
về Đề án phát triển thương hiệu gạo Việt Nam. Theo đó, Phó Thủ tướng yêu cầu các
bộ, ngành, địa phương, Hiệp hội lương thực Việt Nam và các doanh nghiệp liên
quan tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện Đề án theo hướng xây dựng và phát triển
thương hiệu ở cả 3 cấp độ: quốc gia, vùng và địa phương.
Những “hục hặc”, thậm chí “choảng nhau” giữa các thành viên giữ vai trò
quyết định trong chuỗi sản xuất lúa gạo vừa qua đã làm cho hạt gạo xuất khẩu vừa
chịu sự “cạnh tranh sân nhà”, vừa “gồng mình” trước sự lấn lướt của các “đối
thủ”. Thương hiệu gạo của địa phương, vùng miền và quốc gia cần được định danh
và phát triển, bắt đầu từ doanh nghiệp. Sự hợp tác của doanh nghiệp và nông dân
cùng với nghiên cứu của các nhà khoa học sẽ tạo ra vùng sản xuất rộng lớn.
Doanh nghiệp là “mắc xích” cuối cùng
trong chuỗi đầu ra của xuất khẩu gạo, hơn ai hết, họ “biết mình, biết ta” trong cuộc cạnh tranh trên trường quốc tế.
Phát
triển thương hiệu gạo Việt không chỉ là việc đăng ký nhãn hiệu hay thương hiệu,
mà là một quá trình liên tục duy trì và phát triển những giá trị vật chất, phi
vật chất gắn liền hạt gạo. Vì vậy, rất cần sự vào cuộc và phối hợp của nhiều bộ
ngành, địa phương liên quan, các giải pháp phải đồng bộ, từ khâu sản xuất, chế
biến đến xuất khẩu để xây dựng và phát triển hình ảnh, tăng cường sự nhận biết
về mặt hàng gạo Việt trên thị trường thế giới, góp phần tăng giá trị
và mở rộng thị trường xuất khẩu gạo, thúc đẩy tái cơ cấu ngành lúa, gạo theo hướng
hiệu quả, bền vững.
Nhận xét
Đăng nhận xét