Chuyển đến nội dung chính

Khát vọng tương lai của vùng đất "Chín Rồng"

 Trần Hữu Hiệp

Báo Đầu tư Tài chính SGGP - 28/01/2025 13:13

(ĐTTCO) - Sau năm 1975, ĐBSCL với vai trò là “vựa lúa” của cả nước, phải đứng trước hàng loạt thách thức khắc nghiệt bởi chiến tranh để lại hậu quả nặng nề, cơ sở hạ tầng yếu kém, dân cư chủ yếu sống dựa vào nông nghiệp tự cung tự cấp. 



Vượt qua nghèo khó

Sau năm 1975, ĐBSCL với nhiều vùng đất bị nhiễm phèn, nhiễm mặn. Năm 1978, vùng này phải gánh chịu trận lũ lớn và dịch rầy nâu tàn phá ruộng lúa chưa từng có trong lịch sử. Trong khi cuộc chiến biên giới Tây Nam buộc quân và dân miền Tây vừa lao động sản xuất, vừa ứng phó với chiến tranh.

Tuy nhiên, vượt lên mọi gian nan, người đồng bằng đã thể hiện sức mạnh kiên cường, mở lối phát triển vùng bằng khai hoang, tăng diện tích đất canh tác. Nhiều công trình thủy lợi, kênh mương được xây dựng để cải tạo đất, ngăn mặn giữ ngọt.

Cái tên Đồng Tháp Mười (gồm 3 tỉnh Long An, Đồng Tháp, Tiền Giang) là một trong những vùng chịu ảnh hưởng nặng nề bởi đất phèn và ngập lụt. Nhưng nay đã có công trình thủy lợi quy mô lớn nhằm cải tạo đất phèn và tích trữ nước ngọt. Nhờ vậy vùng này trở thành khu vực sản xuất lúa lớn, góp phần gia tăng sản lượng lương thực và tham gia xuất khẩu gạo.

Nhiều tỉnh đã phát động phong trào khai hoang phục hóa để mở rộng diện tích đất canh tác. Tỉnh Hậu Giang cũ bao gồm TP Cần Thơ, tỉnh Hậu Giang và tỉnh Sóc Trăng ngày nay, đã phát huy vai trò “tỉnh lúa”, với phong trào thi đua sản xuất nông nghiệp đã được phát động ở nhiều địa phương. Hàng vạn hộ gia đình đã tham gia khai phá đất hoang, cải tạo đất nhiễm phèn, mặn để gieo trồng.

Vùng U Minh Thượng (Kiên Giang), U Minh Hạ (Minh Hải) vốn là vùng đất hoang sơ, đã được khai hoang, xây dựng hệ thống kênh mương để dẫn nước ngọt và kiểm soát mặn. Các kênh nổi tiếng như kênh thoát lũ ra biển Tây, kênh Tắc Cậu và Vĩnh Tế được phát huy, công trình thủy lợi bán đảo Cà Mau không chỉ giúp cải thiện đời sống người dân, mà còn tạo điều kiện để mở rộng diện tích sản xuất.

Năm 1986, công cuộc Đổi mới do Đảng và Nhà nước khởi xướng đã mở ra một chương mới cho ĐBSCL. Các mô hình xé rào trong sản xuất nông nghiệp, hợp tác xã và tập đoàn, khoán hộ ở An Giang, Long An, Hậu Giang, Tiền Giang… là nguồn cung thực tiễn phong phú, dẫn đến các quyết sách Đổi mới của Trung ương.

Nhờ sản xuất hàng hóa, cơ chế kinh tế thị trường, vùng đất này đã phát huy được tiềm năng to lớn. Chính sách khoán sản phẩm trong nông nghiệp giải phóng sức lao động, mang lại những bước nhảy vọt về năng suất và sản lượng lúa gạo.

Tuy nhiên, sự phát triển nhanh của vùng cũng đối diện với những vấn đề môi trường và xã hội. Sự khai thác tài nguyên không bền vững, tình trạng sụt lún đất, xâm nhập mặn và biến đổi khí hậu bắt đầu gây ra những tác động nghiêm trọng. Trong khi đó, cơ sở hạ tầng chưa đồng bộ, chất lượng nguồn nhân lực thấp kém và đời sống người dân còn chênh lệch so với các vùng khác.

Tư duy phát triển bền vững

Quyết định 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu, đã đặt nền móng cho một chiến lược dài hạn, Nghị quyết 13-NQ/TW của Bộ Chính trị ban hành, Quyết định 287/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021-2030 tầm nhìn 2050, là những dấu mốc quan trọng đánh dấu bước chuyển mình của vùng đất Chín Rồng.

Đó là thay vì chạy theo sản lượng, ĐBSCL đang chuyển mình từ “sản xuất nông nghiệp” sang “kinh tế nông nghiệp”. Nền kinh tế này không chỉ dựa trên sản xuất, mà còn tạo ra nhiều hơn giá trị gia tăng từ chế biến, thương mại và các dịch vụ gia tăng khác; không chỉ dựa vào tài nguyên hữu hình, hữu hạn mà đổi mới sáng tạo từ tài sản vô hình như thương hiệu, tích hợp giá trị liên ngành.

Chẳng hạn mô hình của Đề án 1 triệu ha vùng lúa chất lượng cao, phát thải thấp, gắn với tăng trưởng xanh. Các phương thức sản xuất “lúa - tôm”, nuôi trồng thủy sản kết hợp phát triển năng lượng sạch và du lịch. Những giá trị tri thức bản địa đang được kết hợp với khoa học công nghệ hiện đại, nhằm tối ưu hóa nguồn lực và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Hệ thống giao thông đường bộ, đường thủy, hàng hải và hàng không; các trục dọc huyết mạch, đường ngang, đường vành đai ven biển phía Đông và phía Tây; các tuyến cao tốc TPHCM - Trung Lương - Mỹ Thuận - Cần Thơ, cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng, cao tốc Bắc Nam, đoạn tuyến Cần Thơ - Hậu Giang - Cà Mau đang thi công; các trục Quốc lộ Nam Sông Hậu, Quản Lộ - Phụng Hiệp, tuyến N1, N2; các cầu lớn vượt sông Tiền, sông Hậu, Hàm Luông, Cao Lãnh, Cái Lớn, Đầm Cùng… như những “chiếc đũa vàng” nối mạch Cửu Long Giang, vừa kết nối, vừa tạo ra không gian phát triển mới cho các tiểu vùng, nội vùng ĐBSCL và liên vùng với TPHCM, miền Đông Nam bộ.

50 năm là một hành trình đầy gian nan, nhưng cũng rực rỡ của ĐBSCL - Thế đất Chín Rồng luôn sẵn sàng vươn mình vượt khó. Vùng đất này đã đi từ nghèo khó, vươn lên trở thành trụ cột kinh tế, và nay đang chuyển mình thành một mô hình phát triển bền vững, hội nhập toàn cầu.

https://dttc.sggp.org.vn/khat-vong-tuong-lai-cua-vung-dat-chin-rong-post119814.html

 

 

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

"Tính cách người Việt theo vùng miền"

Thảo luận về "Văn hoá & tính cách con người Việt theo vùng miền" trên  Trái tim Việt Nam online . Người bắc thường ăn nói nhẹ nhàng, kín đáo, thường hay suy nghĩ sâu xa. Người miền trung thì mọc mạc, chất phác lại hay có tính cục bộ. Người miền nam thì phóng khoáng cởi mở, dễ gần.Dân miền Bắc thường thể hiện mình qua lời nói, trong bất cứ tình huống nào họ cũng đều phải nói cho được. Dân miền Trung thường thể hiện mình qua thái độ, cử chỉ, còn miền Nam thì thể hiện qua phong cách. Nói chung dân Bắc-Trung-Nam đều diễn tuồng cả, cho nên lời nói lúc thì nhẹ nhàng điềm đạm, lúc lại gắt gỏng chua ngoa, thái độ có lúc thì đằm thắm, khi thì thì lại khinh bạc, phong cách thì có lúc phóng khoáng lúc lại dè dặt... Ấn tượng bên ngoài là như thế nhưng có khi bạn cũng thấy là chẳng ai tranh cãi lý luận lại người Trung, thái độ cử chỉ của dân Bắc cũng có thể khiến bạn dè chừng, và lời nói hay thái độ của dân Nam cũng khiến bạn chạy dài... Muốn kiểm chứng thì bạn cứ bỏ ra ...

ART NUDE PHOTOS của Dương Quốc Định

Quên những bộn bề lo toan giá vàng lên xuống, giá lúa, cá tra giảm, chuyện nhà khoa học phải nói dối ... để  ngắm ảnh các em xinh đẹp. Và nếu như kết quả nghiên cứu khoa học của một bà đầm Đức  là khoa học  (không như ta nói dối nhiều quá):  DÒM VÚ PHỤ NỮ TĂNG TUỔI THỌ     (Blog này đã từng có bài, nằm trong nhóm truy cập nhiều nhứt, có lẽ nhiều người đã luyện tập?) thì quý ông cũng nên tập thể dục con mắt một tí nhé. Xin mượn mấy tấm ảnh của nhà nhiếp ảnh Dương Quốc Định làm  dụng cụ luyện tập, ai có điều kiện thì xài hàng thật. Bộ sưu tập những bức ảnh khỏa thân và bán khỏa thân nghệ thuật của nhiếp ảnh gia trẻ Dương Quốc Định. Rất nhiều ảnh trong bộ sưu tập này đã đoạt những giải thưởng quốc tế uy tín. Cảm ơn tác giả đã chia sẻ tác phẩm trên internet. Mời bạn xem qua phần thể hiện bộ sưu tập trên PPS của chúng tôi. Link PPS:  http://vn.360plus.yahoo.com/nns-nguyennamson/article?new=1&mid=112 Chân dung Dương Quốc Địn...

Nhớ Cần Thơ phố

Trần Hữu Hiệp B áo Dân Việt So với Thăng Long - Hà Nội ngàn năm văn hiến, cố đô Huế trầm tư hay Sài Gòn phố nhộn nhịp, thì Cần Thơ phố mang đậm đặc trưng sông nước miệt vườn. Nơi đó, hàng ngày, người Tây Đô vẫn đang sống cuộc đời bình dị. Nhớ thời học phổ thông, nhà tôi chỉ cách trung tâm Cần Thơ 20 Km, nhưng mãi đến năm 15 tuổi, lần đầu tiên mới được đến Cần Thơ cùng đội học sinh giỏi của Trường cấp III Ô Môn dự thi. Đêm, mấy thằng nhà quê lang thang, lạc đường trên phố Hòa Bình, thời đó là một  đại lộ mênh mông trong mắt nhìn bọn trẻ nhà quê chúng tôi. Ký ức Cần Thơ phố trong tôi một thời còn vang qua giọng ngâm của ai trong đêm tĩnh lặng nơi con hẻm nhỏ, bài thơ Tình trắng của Kiên Giang – Hà Huy Hà: “Cần Thơ, ơi hỡi Cần Thơ/Bóng dáng ngày xanh phủ bụi mờ/Ai nhặt giùm tôi bao kỷ niệm” … Và thơ tôi, tuổi học trò: “Ai đặt tên em tự bao giờ/Người đời hai tiếng gọi Cần Thơ/Mỗi lúc đi xa ta nhớ quá/Gặp lại hình em tron...