Trần Hữu Hiệp
ĐBSCL là vùng duy nhất của cả nước tiếp
giáp 3 mặt biển: Đông, Tây, Nam với bờ biển dài 750 km, chiếm 23% bờ biển quốc
gia; hơn 360 ngàn km2 vùng biển và đặc quyền kinh tế, có gần 200 đảo và quần đảo;
trong đó có đảo lớn nhất nước là Phú Quốc. Đất Chín Rồng không chỉ là vựa lúa,
trái cây, thủy sản của cả nước, một trung tâm sản xuất hàng hóa lớn trong chuỗi
cung ứng nông sản toàn cầu, mà còn có tiềm năng kinh tế biển to lớn cần được đầu
tư phát triển.
Thành tựu và thách thức từ nông nghiệp
Thành
tựu 30 đổi mới, 40 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước ở ĐBSCL nổi bật
là nông nghiệp. Đó là kỳ tích của hạt gạo, trái cây, thủy sản. Chỉ sau 2 thập
niên, sản lượng lúa của vùng đã được nhân lên gấp đôi, từ 9,48 triệu năm 1990
lên 21,5 triệu tấn năm 2010, đến năm 2014 đã đạt hơn 25 triệu tấn. Kim ngạch
xuất khẩu gạo luôn chiếm khoảng 90% cả nước, 20% thị phần gạo thương mại toàn
cầu. Kỳ tích hạt gạo ĐBSCL đã đưa nước ta từ một nước thiếu đói vào những năm
1980, chỉ sau 2 năm đổi mới đã trở thành cường quốc xuất khẩu gạo thứ 2 thế
giới và giữ vững ngôi vị á quân đến nay. Sau cây lúa, ĐBSCL là vùng nuôi trồng
thủy sản lớn nhất nước, chiếm 70% diện tích, 58% sản lượng; riêng con tôm chiếm
80% sản lượng và đóng góp hơn 60% kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả nước. Cá
tra tạo ra kỳ tích với khoảng hơn 5.000 ha mặt nước đã tạo ra khoảng 1,8 tỷ USD
giá trị kim ngạch xuất khẩu. Trong lĩnh vực sản xuất trái cây, ĐBSCL là
vùng nguyên liệu lớn nhất nước, với khoảng 300.000ha, chiếm 38% diện tích,
nhưng cung cấp tới 70% sản lượng. Nhiều loại trái cây đặc sản của vùng như bưởi
Năm Roi, vú sữa Lò Rèn, xoài cát Hòa Lộc … nổi tiếng thế giới.
Nhưng,
từ nền kinh tế nông nghiệp số lượng chuyển sang giá trị và chất lượng đang là
một thách thức lớn của vùng đất Chín Rồng cần được tập trung giải quyết. Hiện
có đến 90% sản phẩm nông nghiệp được bán ở dạng thô và 60% bán với giá thấp.
Việc tiếp cận thông tin thị trường của hầu hết nông dân còn rất hạn chế (chỉ có
25%). Bên cạnh đó, ngành nuôi thủy sản tự phát đang “quá nóng”, thiếu đồng bộ;
đầu tư cho phát triển chưa tương xứng; cơ sở hạ tầng yếu kém đang là thách thức
cho phát triển thủy sản bền vững, đảm bảo môi trường. Hiện vẫn còn nhiều tồn
tại trong sản xuất và tiêu thụ trái, giống và quản lý giống còn nhiều bất cập;
thách thức về lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm; sự liên kết “4 nhà” chưa đáp
ứng tốt yêu cầu một ngành hàng chủ lực của vùng. Đối với nông dân ĐBSCL, với
tư cách của người sản xuất hàng hóa, họ đang rất cần được giải phóng bằng kiến
thức của nhà kinh doanh, cần được đào tạo nghề nông nghiệp thực chất hơn là đào
tạo nghề xã hội chung chung như cách làm vừa qua; đào tạo nghề phi nông nghiệp
để tác động tích cực trở lại cho nông nghiệp, nông thôn. Đó là cách thức giúp
nông dân không chỉ đứng vững trên đồng ruộng mà còn có thể làm giàu từ nông
nghiệp, nông thôn.
Ba thách thức kinh tế biển ĐBSCL
Thách thức đầu tiên trong phát triển kinh tế biển ĐBSCL cần
được khắc phục đó là cách tiếp cận, tư duy triển kinh tế biển thời gian qua chủ
yếu dựa vào “thói quen” của kinh tế nông nghiệp truyền thống. Vì vậy, chưa giải
quyết được căn cơ mối quan hệ giữa phát huy lợi thế bậc nhất về nông nghiệp (sản
xuất lúa gạo, thuỷ sản, trái cây) với kinh tế biển (vận tải biển, hậu cần
logistic, du lịch biển, đảo, phát triển kinh tế biển để khai thác lợi thế và phục
vụ nông nghiệp …). Hai là, vấn đề qui hoạch, tổ chức không gian phát triển và đầu
tư còn hạn chế. ĐBSCL là vùng giàu tiềm năng, nhưng nguồn lực đầu tư, đặc biệt
là từ ngân sách và doanh nghiệp thấp, nội lực cho đầu tư phát triển thấp. Tài
nguyên, nguồn lợi tự nhiên từ biển chủ yếu được “khai thác sẵn có”, nhiều rủi
ro, trình độ thấp, hạ tầng yếu kém, thiếu liên kết vùng. Ba là, thách thức trước
biến đổi khí hậu, nước biển dâng và yều tố “cạnh tranh phát triển” ở biển Đông,
biển Tây. Không gian phát triển mới, cách tiếp cận mới, khác căn bản cách tiếp
cận phát triển kinh tế “đất liền”. Kinh tế biển ĐBSCL cần được đầu tư, khai
thác gắn với chiến lược kinh tế biển của nước ta để ĐBSCL không chỉ là vựa lúa,
trái cây mà còn là vùng mạnh về biển.
Chiến lược nào
cho kinh tế biển xanh ĐBSCL?
Yêu cầu đặt ra là làm sao giải quyết tốt mối quan hệ giữa
phát triển kinh tế nông nghiệp và kinh tế biển theo hướng hiện đại, bền vững. Phát
triển kinh tế biển vùng ĐBSCL cần sự tiếp cận chuỗi - hệ thống tổng thể và thể
chế, chính sách. Cần được tổ chức triển khai một cách đồng bộ, từ chất lượng và
hiệu quả đầu tư, hợp tác quốc tế, vấn đề chủ quyền, đảm bảo quốc phòng – an
ninh, tăng cường liên kết vùng, liên kết chính quyền, doanh nghiệp – thị trường
… Với nguồn lực có hạn, việc lựa chọn mục tiêu trọng tâm, lựa chọn điểm đột
phá, khắc phục tình trạng dàn trải, phân tán trong đầu tư phát triển kinh tế biển,
gây lãng phí và kém hiệu quả ... là yêu cầu quan trọng hàng đầu. Bên cạnh đó, cần
có cơ chế, chính sách mạnh mẽ hơn cho kinh tế biển ở ĐBSCL bởi cho đến nay, vẫn
chưa có gì đặc biệt thoát ra khỏi khung chính sách khuyến khích đầu tư chung.
Liên kết vùng là đòi hỏi cấp bách không chỉ trên đất liền mà
cả trên biển và yêu cầu phát triển kinh tế biển xanh ở ĐBSCL. Liên kết vùng cần
một cơ chế pháp lý rõ ràng và mạnh mẽ hơn là sự “khuyến khích” hay các hình thức
ký kết hợp tác chung chung giữa chính quyền các tỉnh với nhau thời gian qua. Việc
liên kết cần được tổ chức theo cơ chế, mô hình, có phân công, phân vai rõ ràng
giữa các địa phương, từ đầu tư các công trình trọng điểm vùng như cảng biển,
khu kinh tế ven biển, phát triển kinh tế biển, du lịch biển đảo đến kết nối các
công trình đầu tư và phát triển kinh tế biển của các tỉnh, thành, tránh đầu tư
dàn trải, lãng phí.
Để kinh tế biển ĐBSCL phát triển, cần tiếp tục ưu tiên đầu
tư, phát triển đảo Phú Quốc trở thành “đặc khu kinh tế biển mang tầm cỡ quốc tế”
như định hướng của Bộ Chính trị. Bên cạnh đó, cần tiếp tục đầu tư “Tứ giác động
lực” – Cần Thơ – Cà Mau – Kiên Giang – An Giang, gắn kết yêu cầu phát triển
kinh tế nông nghiệp với công nghiệp, kinh tế biển, ứng phó biến đổi khí hậu và
nước biển dâng; có chú ý phát triển hài hòa hành lang ven biển và các đô thị
ven biển trong vùng. Phát triển toàn diện ngành hải sản, thành tiểu vùng kinh tế
hải sản trọng điểm của cả nước. Xây dựng Cần Thơ thành trung tâm hậu cần
logistic của vùng, Kiên Giang thành trung tâm nghề cá và dịch vụ lớn của cả nước.
Ngoài ra, vấn đề xây dựng, hoàn thiện và vận hành cơ chế tổ chức liên kết
vùng ĐBSCL trong qui hoạch đầu tư phát triển, liên kết các ngành kinh tế biển,
liên kết thị trường hiệu quả cũng là một yêu cầu cấp bách… Đây chính là bước
chuyển dịch căn bản để vùng đất phù sa này vượt qua khỏi cái bóng của nông nghiệp
lúa nước truyền thống từ ngàn đời nay để ĐBSCL có thể giàu lên từ biển.
Nhận xét
Đăng nhận xét