Chuyển đến nội dung chính

Ðộng lực mới cho liên kết vùng


Trần Hữu Hiệp
Một lần nữa, vấn đề liên kết vùng để phát huy tiềm năng, khai thác lợi thế của các địa phương lại được đặt ra như mệnh lệnh của phát triển. Hội đồng điều phối vùng, được thành lập theo Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển đồng bằng sông Cửu Long (ÐBSCL) ứng phó với biến đổi khí hậu (BÐKH), sẽ phải vận hành ra sao để tháo gỡ được những bất cập bấy lâu?


Cầu Vàm Cống - cây cầu thứ 2 sau cầu Cần Thơ nối đôi bờ sông Hậu
Kích hoạt "phòng thí nghiệm chính sách"
Mục tiêu đặt ra cho liên kết vùng hết sức rõ ràng, mang lại triển vọng phát triển chung cho cả khu vực ÐBSCL và nâng cao năng lực thích ứng với những vấn đề lớn như BÐKH, nước biển dâng trên quy mô rộng lớn. Tuy nhiên, khi đưa vào thực tế lại vấp phải những mối "xung đột lợi ích" do các ngành, các tỉnh "chỉ lo cho mình".
Câu chuyện tỉnh Tiền Giang làm Công viên trái cây hoành tráng lấn sông Tiền, rồi việc xả thải của Nhà máy Giấy Lee & Man ở Hậu Giang cũng như chuỗi các nhà máy nhiệt điện than dọc sông Hậu gây lo ngại và phản ứng... đều là minh chứng về "xung đột lợi ích" giữa các địa phương. Thật khó khi còn có lãnh đạo địa phương "tư duy nhiệm kỳ", doanh nghiệp tư duy theo thương vụ, nông dân lại theo mùa vụ.
Làm gì để tháo gỡ những nút thắt trên? Việc liên kết các tiểu vùng sinh thái tự nhiên, xã hội như Ðồng Tháp Mười, tứ giác Long Xuyên, bán đảo Cà Mau... là cần thiết cho việc liên kết vùng ÐBSCL. Nhưng cần khẳng định, đây không phải là phép cộng của các đơn vị hành chính tỉnh với nhau.
Liên kết vùng là vấn đề lớn, khó, được thực hiện trên hiện trạng tổ chức bộ máy quản lý điều hành, các nguồn lực phân tán, cơ chế, chính sách, hệ thống pháp luật "thiếu phối hợp, thừa chồng chéo". Việc phân bổ ngân sách cho các chương trình, dự án đầu tư liên kết vùng mang tính tích hợp, vượt ra ngoài không gian hành chính tỉnh và nội bộ một ngành, cho đến giờ vẫn luôn bị vướng mắc bởi nhiều quy định của Luật Ngân sách, Luật Ðầu tư công, Luật Tổ chức chính quyền địa phương.
Do đó, yêu cầu quan trọng cần phải tiến hành là sớm hoàn thiện cơ chế điều phối vùng. Việc thành lập Hội đồng điều phối phát triển vùng được ví như "phòng thí nghiệm chính sách" cho sự chuyển đổi mô hình phát triển mới. Nghị quyết số 120 giao Bộ Kế hoạch và Ðầu tư trách nhiệm xây dựng quy hoạch tổng thể vùng, rà soát, đánh giá cơ chế thí điểm điều phối vùng, trong đó có việc thành lập Hội đồng điều phối vùng nhằm tạo sức mạnh tổng hợp, liên kết chuỗi chặt chẽ nâng cao giá trị và sức cạnh tranh của các mặt hàng nông sản, thủy sản của vùng… Ðó là những nội dung cần thiết và yêu cầu quan trọng để bảo đảm thực thi thí điểm. Song cần đặt trong bối cảnh cải cách tổ chức, bộ máy theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6 khóa XII.
Theo đó, cần thành lập Hội đồng điều phối vùng có thực quyền, chỉ tập trung hai lĩnh vực then chốt: điều phối việc quản lý, sử dụng tài nguyên nước và quyết định các dự án đầu tư lớn, có tính liên kết vùng (theo quy mô, tính chất dự án). Giúp việc cho Hội đồng chỉ cần có một bộ phận hoặc văn phòng gọn, nhẹ, cán bộ chuyên môn tinh thông. Cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng cơ chế điều phối và vận hành Trung tâm thông tin dữ liệu vùng ÐBSCL để bảo đảm cung cấp thông tin chính xác, kịp thời cho việc ra quyết định của Hội đồng điều phối vùng.
Hoạt động bên cạnh Hội đồng là nhóm tư vấn phát triển nghiên cứu, tư vấn, phản biện về chính sách và các vấn đề phát triển vùng ÐBSCL. Mọi hoạt động đầu tư phải được điều phối thống nhất, bảo đảm tính liên vùng, liên ngành, có trọng tâm, trọng điểm, có lộ trình hợp lý, trong đó trước mắt tập trung ưu tiên các công trình cấp bách, các công trình có tính chất động lực, thúc đẩy phát triển kinh tế toàn vùng, các công trình thiết yếu phục vụ đời sống nhân dân.
Xác định vai trò "phòng thí nghiệm chính sách" của Hội đồng điều phối vùng đồng nghĩa với việc chấp nhận khó tránh khỏi những khiếm khuyết trong vận hành, để tìm ra mô hình, chính sách hợp lý nhất, đáp ứng được yêu cầu liên kết vùng, phát triển vùng vốn được đặt ra từ lâu nhưng chưa thành công.

Tạo sự gắn kết cho chuỗi giá trị
Trong suốt thời gian dài, liên kết vùng ở ÐBSCL có phần còn nặng về liên kết "chính quyền", nhẹ liên kết "thị trường". Ðể tạo được sự thay đổi về chất trong mối liên kết vùng, sẽ cần phải hình thành các chuỗi giá trị sản phẩm chủ lực theo các tiểu vùng và toàn vùng. Thí dụ, với lợi thế của mình, ÐBSCL cần tập trung vào các chuỗi giá trị sản phẩm: lúa gạo, thủy sản, trái cây và du lịch. Phải giải được bài toán làm ra sản phẩm; rồi tổ chức thị trường các kênh phân phối ra sao…? Cũng cần chuyên môn hóa, mỗi tác nhân trong liên kết đảm nhận nhịp nhàng công việc của mình trong chuỗi sản phẩm. Có như vậy mới tạo ra được nhiều giá trị để tạo nền tảng cho phát triển bền vững của các tiểu vùng và kinh tế vùng.
Các chuỗi giá trị, hay việc hình thành các Cluster - Cụm kinh tế ngành có năng lực cạnh tranh ưu việt khác với mô hình các khu, cụm công nghiệp. Chúng không nhất thiết "quần cư" trong một không gian địa lý, mà là liên kết theo chuyên môn, gắn bó và chia sẻ lợi ích theo công nghệ, thị trường và sự phân công hợp lý. Những người nông dân, doanh nghiệp, các hiệp hội ngành hàng... gắn với nhau không chỉ là chuyện phân công làm nguyên liệu, chế biến, xuất khẩu mà gắn với nhau trong một chuỗi giá trị. Các viện nghiên cứu, trường đại học cũng tham gia với tư cách là người trong "cụm ngành" chứ không phải người hỗ trợ. Không chỉ đáp ứng xu hướng chung, liên kết theo chuỗi giá trị vừa mang lại lợi ích tối đa vừa giải quyết vấn đề xung đột lợi ích của các địa phương.
Trong nền kinh tế thị trường, phân công lao động là đương nhiên, nhưng phải liên kết theo chuỗi giá trị, với sự đóng góp của nông dân, người chế biến, xuất khẩu... Người nông dân vốn chịu nhiều thiệt thòi, chỉ được nhận phần nhỏ nhất, dù trực tiếp làm ra sản phẩm. Ðể phân chia lại lợi nhuận một cách công bằng, điều quan trọng không phải là lấy của người này cho người kia mà làm cho giá trị tổng thể lớn hơn. Và lời giải cho bài toán đó chính là sự liên kết theo chuỗi giá trị.
Muốn tạo được mối liên kết vùng chắc chắn ở ÐBSCL, cần phải song hành mở nút thắt, đi đôi với thông kết nối!


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

"Tính cách người Việt theo vùng miền"

Thảo luận về "Văn hoá & tính cách con người Việt theo vùng miền" trên  Trái tim Việt Nam online . Người bắc thường ăn nói nhẹ nhàng, kín đáo, thường hay suy nghĩ sâu xa. Người miền trung thì mọc mạc, chất phác lại hay có tính cục bộ. Người miền nam thì phóng khoáng cởi mở, dễ gần.Dân miền Bắc thường thể hiện mình qua lời nói, trong bất cứ tình huống nào họ cũng đều phải nói cho được. Dân miền Trung thường thể hiện mình qua thái độ, cử chỉ, còn miền Nam thì thể hiện qua phong cách. Nói chung dân Bắc-Trung-Nam đều diễn tuồng cả, cho nên lời nói lúc thì nhẹ nhàng điềm đạm, lúc lại gắt gỏng chua ngoa, thái độ có lúc thì đằm thắm, khi thì thì lại khinh bạc, phong cách thì có lúc phóng khoáng lúc lại dè dặt... Ấn tượng bên ngoài là như thế nhưng có khi bạn cũng thấy là chẳng ai tranh cãi lý luận lại người Trung, thái độ cử chỉ của dân Bắc cũng có thể khiến bạn dè chừng, và lời nói hay thái độ của dân Nam cũng khiến bạn chạy dài... Muốn kiểm chứng thì bạn cứ bỏ ra ...

ART NUDE PHOTOS của Dương Quốc Định

Quên những bộn bề lo toan giá vàng lên xuống, giá lúa, cá tra giảm, chuyện nhà khoa học phải nói dối ... để  ngắm ảnh các em xinh đẹp. Và nếu như kết quả nghiên cứu khoa học của một bà đầm Đức  là khoa học  (không như ta nói dối nhiều quá):  DÒM VÚ PHỤ NỮ TĂNG TUỔI THỌ     (Blog này đã từng có bài, nằm trong nhóm truy cập nhiều nhứt, có lẽ nhiều người đã luyện tập?) thì quý ông cũng nên tập thể dục con mắt một tí nhé. Xin mượn mấy tấm ảnh của nhà nhiếp ảnh Dương Quốc Định làm  dụng cụ luyện tập, ai có điều kiện thì xài hàng thật. Bộ sưu tập những bức ảnh khỏa thân và bán khỏa thân nghệ thuật của nhiếp ảnh gia trẻ Dương Quốc Định. Rất nhiều ảnh trong bộ sưu tập này đã đoạt những giải thưởng quốc tế uy tín. Cảm ơn tác giả đã chia sẻ tác phẩm trên internet. Mời bạn xem qua phần thể hiện bộ sưu tập trên PPS của chúng tôi. Link PPS:  http://vn.360plus.yahoo.com/nns-nguyennamson/article?new=1&mid=112 Chân dung Dương Quốc Địn...

Nhớ Cần Thơ phố

Trần Hữu Hiệp B áo Dân Việt So với Thăng Long - Hà Nội ngàn năm văn hiến, cố đô Huế trầm tư hay Sài Gòn phố nhộn nhịp, thì Cần Thơ phố mang đậm đặc trưng sông nước miệt vườn. Nơi đó, hàng ngày, người Tây Đô vẫn đang sống cuộc đời bình dị. Nhớ thời học phổ thông, nhà tôi chỉ cách trung tâm Cần Thơ 20 Km, nhưng mãi đến năm 15 tuổi, lần đầu tiên mới được đến Cần Thơ cùng đội học sinh giỏi của Trường cấp III Ô Môn dự thi. Đêm, mấy thằng nhà quê lang thang, lạc đường trên phố Hòa Bình, thời đó là một  đại lộ mênh mông trong mắt nhìn bọn trẻ nhà quê chúng tôi. Ký ức Cần Thơ phố trong tôi một thời còn vang qua giọng ngâm của ai trong đêm tĩnh lặng nơi con hẻm nhỏ, bài thơ Tình trắng của Kiên Giang – Hà Huy Hà: “Cần Thơ, ơi hỡi Cần Thơ/Bóng dáng ngày xanh phủ bụi mờ/Ai nhặt giùm tôi bao kỷ niệm” … Và thơ tôi, tuổi học trò: “Ai đặt tên em tự bao giờ/Người đời hai tiếng gọi Cần Thơ/Mỗi lúc đi xa ta nhớ quá/Gặp lại hình em tron...