Chuyển đến nội dung chính

Thời sự & Suy nghĩ: Thuốc trừ cỏ: cắt ngọn hay diệt gốc?


Báo Tuổi Trẻ, ngày 01-10-2018
Trần Hữu Hiệp

Bộ Nông nghiệp và PTNT vừa có Công văn yêu cầu tăng cường quản lý việc sử dụng thuốc trừ cỏ trong giao thông, đề nghị UBND các tỉnh chỉ đạo Sở chuyên ngành, UBND các cấp và các tổ chức, cá nhân liên quan không dùng thuốc trừ cỏ với mục đích phi nông nghiệp, tại nơi công cộng, đông dân cư, ven đường, trên các công trình giao thông gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người, vật nuôi và môi trường.
Mấy năm trước đây Tổng cục Đường bộ VN đã yêu cầu các Cục Quản lý đường bộ, các Sở Giao thông vận tải kiểm tra, xử lý nghiêm việc sử dụng thuốc diệt cỏ dọc theo các tuyến giao thông. Điều 5.1.2.5, Tiêu chuẩn cơ sở số 07:2013/TCĐBVN về Tiêu chuẩn kỹ thuật bảo dưỡng thường xuyên đường bộ đã quy định “Tuyệt đối không được sử dụng các thuốc hóa học, thuốc diệt cỏ thay cho cắt cỏ”. Nhiều địa phương đã chỉ đạo việc tăng cường quản lý nhà nước thuốc bảo vệ thực vật, nhưng tình trạng lạm dụng thuốc sâu, thuốc cỏ cứ diễn ra. Môi trường ngày càng ô nhiễm hơn, thực phẩm kém an toàn hơn, số người mắc bệnh và tử vong vì ung thư tăng mà nguyên nhân từ những hệ lụy trên ngày càng nhiều.
Nông dân sử dụng thuốc sâu phổ biến

Theo Tổng hội Nông nghiệp & PTNT, Việt Nam là một trong những quốc gia sử dụng thuốc BVTV nhiều và khó kiểm soát. Hiện có 217 hoạt chất với 664 tên thương phẩm đăng ký phòng trừ cỏ dại.
Không thể phủ nhận “lợi ích” của thuốc diệt cỏ. Theo các nhà chuyên môn, cỏ dại có thể làm giảm 40-45% năng suất lúa và hoa màu. Chi phí trừ cỏ dại theo phương thức sản xuất hữu cơ cao gấp 20 lần so với dùng thuốc hóa học. Lợi nhuận trước mắt khiến người ta lạm dụng thuốc cỏ. Hiện có khoảng 40% nông dân dùng thuốc BTVT theo thói quen, tự bắt bệnh, tự mua thuốc. Cửa hàng và người buôn bán thuốc nhiều, điều kiện kinh doanh còn lỏng lẻo, lực lượng thanh tra mỏng, khó quản lý. Hệ thống hơn 10.000 đại lý bán thuốc bảo vệ thực vật ở ĐBSCL chính là các “phòng khám bệnh cây trồng” không có chuyên môn, chuyên tư vấn cho nông dân dùng thuốc mà tiêu chí chọn lựa ưu tiên vẫn là chủng loại thuốc có chiết khấu huê hồng cao.
Tăng cường quản lý thuốc trừ cỏ là cần thiết. Bộ chỉ đạo xuống tỉnh, tỉnh xuống huyện, huyện xuống xã. Trong khi cấp cơ sở thiếu kiến thức chuyên môn, thực tế nhiều cán bộ không thể phân biệt được loại thuốc bảo vệ thực vật nào người dân được phép dùng hay không, nên hiệu quả quản lý nhà nước kém. Yêu cầu đặt ra là phải “diệt cỏ tận gốc” chứ không phải chỉ bằng cách kêu gọi ý thức, qui định chung chung thiếu tính khả thi, thiếu chế tài không đủ mạnh để xử lý.
Đầu vào của thuốc cỏ ở chỗ, hàng năm nước ta vẫn phải chi hàng tỉ USD cho việc nhập nguyên liệu sản xuất thuốc BVTV. Một cường quốc nông nghiệp mà diện tích đất sản xuất nông nghiệp hữu cơ chưa đến 1%, nên phải dùng nhiều thuốc hóa học. Trong khi các tiêu chuẩn quốc gia đối với các sản phẩm thuốc BVTV còn nhiều bất cập trước yêu cầu bảo vệ sức khỏe con người và môi trường sống ngày càng cao. Thái độ tiêu cực của chính con người bởi các phương thức sản xuất, sinh hoạt, thói quen tiêu dùng chính là khách hàng lớn của nhà sản xuất thuốc sâu.
Theo các chuyên gia, cần có lộ trình rõ ràng giảm sử dụng thuốc BVTV khoảng 30-40% mỗi năm, nâng tỷ lệ thuốc sinh học lên 40-60% từ nay đến năm 2020 và nâng cao tiêu chuẩn chất lượng các sản phẩm theo hướng giảm tối đa mức độ ô nhiễm môi trường và tuyệt đối không nguy hại sức khỏe con người. Cần tổng rà soát, sắp xếp, xử lý các cơ sở sản xuất và các sản phẩm thuộc BVTV không đảm bảo. Tăng cường hướng dẫn, huấn luyện nông dân sử dụng thuốc BVTV có trách nhiệm, an toàn và hiệu quả.
Quan trọng hơn việc cấm và quản sử dụng thuốc BVTV là xây dựng các chuỗi giá trị “sản xuất và tiêu dùng xanh” trên cơ sở hình thành các cụm kinh tế ngành và hệ thống phân phối đảm bảo truy xuất nguồn gốc. Quản lý thuốc cỏ không chỉ là việc dùng thuốc cỏ, cần tiếp cận từ gốc, phối hợp và giải quyết liên ngành. 

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

"Tính cách người Việt theo vùng miền"

Thảo luận về "Văn hoá & tính cách con người Việt theo vùng miền" trên  Trái tim Việt Nam online . Người bắc thường ăn nói nhẹ nhàng, kín đáo, thường hay suy nghĩ sâu xa. Người miền trung thì mọc mạc, chất phác lại hay có tính cục bộ. Người miền nam thì phóng khoáng cởi mở, dễ gần.Dân miền Bắc thường thể hiện mình qua lời nói, trong bất cứ tình huống nào họ cũng đều phải nói cho được. Dân miền Trung thường thể hiện mình qua thái độ, cử chỉ, còn miền Nam thì thể hiện qua phong cách. Nói chung dân Bắc-Trung-Nam đều diễn tuồng cả, cho nên lời nói lúc thì nhẹ nhàng điềm đạm, lúc lại gắt gỏng chua ngoa, thái độ có lúc thì đằm thắm, khi thì thì lại khinh bạc, phong cách thì có lúc phóng khoáng lúc lại dè dặt... Ấn tượng bên ngoài là như thế nhưng có khi bạn cũng thấy là chẳng ai tranh cãi lý luận lại người Trung, thái độ cử chỉ của dân Bắc cũng có thể khiến bạn dè chừng, và lời nói hay thái độ của dân Nam cũng khiến bạn chạy dài... Muốn kiểm chứng thì bạn cứ bỏ ra

ART NUDE PHOTOS của Dương Quốc Định

Quên những bộn bề lo toan giá vàng lên xuống, giá lúa, cá tra giảm, chuyện nhà khoa học phải nói dối ... để  ngắm ảnh các em xinh đẹp. Và nếu như kết quả nghiên cứu khoa học của một bà đầm Đức  là khoa học  (không như ta nói dối nhiều quá):  DÒM VÚ PHỤ NỮ TĂNG TUỔI THỌ     (Blog này đã từng có bài, nằm trong nhóm truy cập nhiều nhứt, có lẽ nhiều người đã luyện tập?) thì quý ông cũng nên tập thể dục con mắt một tí nhé. Xin mượn mấy tấm ảnh của nhà nhiếp ảnh Dương Quốc Định làm  dụng cụ luyện tập, ai có điều kiện thì xài hàng thật. Bộ sưu tập những bức ảnh khỏa thân và bán khỏa thân nghệ thuật của nhiếp ảnh gia trẻ Dương Quốc Định. Rất nhiều ảnh trong bộ sưu tập này đã đoạt những giải thưởng quốc tế uy tín. Cảm ơn tác giả đã chia sẻ tác phẩm trên internet. Mời bạn xem qua phần thể hiện bộ sưu tập trên PPS của chúng tôi. Link PPS:  http://vn.360plus.yahoo.com/nns-nguyennamson/article?new=1&mid=112 Chân dung Dương Quốc Định Dương Quốc Định  sinh năm 1967,

Nhớ Cần Thơ phố

Trần Hữu Hiệp B áo Dân Việt So với Thăng Long - Hà Nội ngàn năm văn hiến, cố đô Huế trầm tư hay Sài Gòn phố nhộn nhịp, thì Cần Thơ phố mang đậm đặc trưng sông nước miệt vườn. Nơi đó, hàng ngày, người Tây Đô vẫn đang sống cuộc đời bình dị. Nhớ thời học phổ thông, nhà tôi chỉ cách trung tâm Cần Thơ 20 Km, nhưng mãi đến năm 15 tuổi, lần đầu tiên mới được đến Cần Thơ cùng đội học sinh giỏi của Trường cấp III Ô Môn dự thi. Đêm, mấy thằng nhà quê lang thang, lạc đường trên phố Hòa Bình, thời đó là một  đại lộ mênh mông trong mắt nhìn bọn trẻ nhà quê chúng tôi. Ký ức Cần Thơ phố trong tôi một thời còn vang qua giọng ngâm của ai trong đêm tĩnh lặng nơi con hẻm nhỏ, bài thơ Tình trắng của Kiên Giang – Hà Huy Hà: “Cần Thơ, ơi hỡi Cần Thơ/Bóng dáng ngày xanh phủ bụi mờ/Ai nhặt giùm tôi bao kỷ niệm” … Và thơ tôi, tuổi học trò: “Ai đặt tên em tự bao giờ/Người đời hai tiếng gọi Cần Thơ/Mỗi lúc đi xa ta nhớ quá/Gặp lại hình em trong giấc mơ …”.   Nhớ Cần Thơ phố thời bao