Trần Hữu Hiệp
Mấy ngày sau khi Thủ tướng chỉ đạo quyết liệt các biện
pháp tiêu thụ lúa đông xuân, giá lúa tại ĐBSCL có nhích lên do tác động tâm lý,
nhưng vẫn còn tình trạng "nằm chờ" sự chuyển bộ thật sự của ngân
hàng, doanh nghiệp thu mua. Một lần nữa, bài toán lúa gạo cần lời giải căn cơ.
Khó từ lúa ngoài đồng
đến gạo vào trong chợ
Đông Xuân là vụ
lúa chính của nông dân ĐBSCL, quyết định thu nhập trong năm của bà con. Cú sốc
ngược đầu năm 2019 nổ ra khi lúa ngoài đồng chờ thu hoạch mà liên tục rớt giá,
nông dân không bán được, doanh nghiệp kêu thiếu vốn không tổ chức thu mua.
Lý giải tình trạng
trên, nhiều người cho rằng do thị trường xuất khẩu gạo gặp khó, thời điểm đầu
năm chưa có nhiều đơn hàng xuất khẩu, trong khi nhiều nông dân cũng muốn bán
lúa để có tiền chi tiêu.
Song, cần nhìn nhận
những yếu kém trong việc kết nối giữa sản xuất và tiêu thụ lúa gạo chính là
nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trên. Những mô hình tốt như cánh đồng lớn,
ứng dụng giống mới, cải tiến kỹ thuật, tổ chức sản xuất làm tăng năng suất lúa
chỉ mới cho thấy giá trị gia tăng của công đoạn làm ra hạt lúa ngoài đồng.
Chuỗi giá trị quan
trọng hơn, cần sự tác động tích cực hơn liên quan đến hệ thống tiêu thụ, chuỗi
giá trị sau gạo đang nằm ở các khâu từ hạt lúa trên đồng ruộng đến hạt gạo hàng
hóa trên thương trường.
Hạt gạo từ “đồng vàng,
ruộng nhà tôi” ra “chợ lớn” của thị trường, không chỉ dựa vào “nước, phân, cần,
giống” mà đang chịu sự tác động mạnh mẽ của các quy luật của kinh tế thị trường
và cơ chế, chính sách, đòi hỏi Nhà nước bớt chỉ đạo, tăng kiến tạo.
Cần bàn tay hữu hình,
tránh bổn cũ
Chỉ đạo quyết liệt của
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành, ngân hàng, địa phương, doanh nghiệp
tập trung mua lúa bước đầu đã tác động tích cực đẩy giá lúa nhích lên mấy ngày
qua.
Song, Thủ tướng Nguyễn
Xuân Phúc cũng chỉ rõ, các biện pháp này là biện pháp thị trường bình thường,
chứ không phải phi thị trường. Nhà nước không can thiệp vào thị trường để bảo
đảm hoạt động thị trường bình thường, theo quy luật giá trị.
Việc tổ chức mua dự
trữ quốc gia năm 2019 với số lượng 80.000 tấn lúa và 200.000 tấn gạo, mua
100.000 tấn gạo tiếp theo để thực hiện theo Nghị định 75/2015/NĐ-CP về cơ chế
chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2015-2020 và các chính
sách hỗ trợ của Nhà nước theo quy định hiện hành.
Các tổng công ty lương
thực phải mua dự trữ 5% sản lượng theo quy định, thực hiện sớm kế hoạch xuất
khẩu cho Philippines 200.000 tấn gạo và các doanh nghiệp Trung Quốc đã xác định
mua 100.000 tấn gạo rất cần “bàn tay hữu hình” của Nhà nước, nhưng phải tôn
trọng nguyên tắc thị trường, không được vô hiệu hóa “bàn tay vô hình” với sự
vận hành của các quy cung – cầu, quy luật giá trị.
Ngân sách không thể
tiếp tục đổ ra để cấp bù lãi suất cho doanh nghiệp mua tạm trữ như trước, quay lại chính sách “ăn đong”,
đối phó ngắn hạn trước tình trạng nóng lạnh của giá cả vốn xảy ra thường xuyên.
Việc trông chờ vào
chính sách tạm trữ ngắn hạn lúc bí đầu ra, bộc lộ nhiều yếu kém, không giúp ích
được nhiều cho nông dân mà còn tạo gánh nặng cho doanh nghiệp xuất khẩu khi
lượng tồn kho tăng, kho bãi hạn chế, chế biến bảo quản chưa đảm bảo chất lượng.
Nó cũng không phù hợp
với cách thức hỗ trợ trong kinh tế thị trường cũng như cam kết tham gia các
hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Thực tế cho thấy, trong những năm giá
lúa gạo ở mức cao nhất, nông dân vẫn hưởng thực lợi ít nhất vì qua nhiều khâu
trung gian và độ trễ của chính sách.Hệ điều hành mới cho ngành lúa gạo
Thủ tướng Nguyễn Xuân
Phúc đã giao các Bộ, ngành, địa phương phải triển khai mạnh mẽ hiệu quả đề án
tái cơ cấu lúa gạo. Con đường phát triển của lúa gạo là phải nâng cao chất
lượng, gia tăng giá trị và cơ cấu lại sản phẩm phù hợp với nhu cầu của thị
trường.
Kết nối cung - cầu lúa
gạo là bài toán kinh tế hơn là các hoạt động chỉ đạo hành chính hay chỉ đạo sản
xuất mang tính chủ quan của nhà quản lý.
Tư duy làm chính sách
và thực thi chính sách cho ngành lúa gạo trước yêu cầu mới cần được đổi mới mang
tính chủ động, dựa vào thế mạnh, tiếp cận theo chuỗi giá trị sản phẩm hơn là
việc đối phó tình thế.
Vấn đề quan trọng hơn
“giải cứu” lúa gạo là phải hoàn thiện chuỗi giá trị lúa gạo bền vững, thực
chất. Thúc đẩy mạnh mẽ hơn các ngành “công nghiệp phụ trợ”, hình thành các
ngành công nghiệp mới sau gạo, tạo ra nhiều giá trị gia tăng cao như thực phẩm
tiêu dùng (dầu ăn, sữa gạo, thức uống dinh dưỡng...), vật liệu (đánh bóng kim
loại), sơn (nano chống cháy), ngành dược, mỹ phẩm, ngành công nghiệp sản xuất thức
ăn chăn nuôi, thủy sản, bên cạnh gạo để ăn truyền thống như lâu nay.
Tư duy làm chính
sách và thực thi chính sách cho ngành lúa gạo trước yêu cầu mới cần được đổi
mới mang tính chủ động, dựa vào thế mạnh, tiếp cận theo chuỗi giá trị sản
phẩm hơn là việc đối phó tình thế.
TS TRẦN HỮU HIỆP
|
Cần tiếp tục thực thi
nhiều cơ chế, chính sách giải pháp xây dựng chuỗi giá trị lúa gạo hoàn chỉnh.
Phải kiểm soát được tiêu chuẩn chất lượng gạo từ sản xuất, chế biến đến các
kênh phân phối bằng pháp luật và chất lượng quản lý.
Người dùng gạo trong
nước với tư cách là khách hàng tiêu thụ hơn 2,5 lần lượng gạo xuất khẩu hàng
năm có quyền và cần phải có công cụ truy xuất nguồn gốc gạo, bảo vệ các thương
hiệu gạo uy tín, chất lượng.
Ngành kinh tế lúa gạo
phải thoát cảnh giải cứu và các chính sách “bổn cũ soạn lại” như mọi khi. Đã
đến lúc ngành nông nghiệp nước ta nói chung, ngành lúa gạo nói riêng, cần vượt
qua dấu chân lấm bùn của kinh tế tự nhiên, kinh nghiệm nông nghiệp truyền thống
để bước sang kinh tế tri thức, tham gia vào chuỗi giá trị công nghiệp sáng tạo
toàn cầu.
Nhận xét
Đăng nhận xét