TS. TRẦN HỮU HIỆP
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đang trở
thành một trung tâm năng lượng quốc gia, với tổng công suất phát điện dự kiến
vào năm 2030 lên đến 18.224 MW, gấp 7,6 lần nhà thủy điện Sơn La có công suất
lớn nhất Đông Nam Á (2.400 MW).
Các trung
tâm điện lực Cần Thơ, Cà Mau, Trà Vinh, Sông Hậu, Long Phú được đầu tư xây dựng
có tổng công suất phát điện lớn.
Nhà máy Nhiệt điện Ô Môn 1 có công suất 660MW, sản
lượng khoảng 3,6 tỷ kWh/năm, tiêu thụ khoảng 800 triệu - 1 tỷ m3 khí/năm. Các
dự án Ô Môn 2 (720MW), Ô Môn 3 (700MW), Ô Môn 4 (720MW) với tổng vốn đầu tư 2
tỷ USD, tiêu thụ khoảng 4 tỷ m3 khí/năm.
Nhiệt điện
khí Cà Mau 1 & 2 có công suất 1.500 MW. Trung tâm Điện lực Duyên Hải có
tổng công suất khoảng 4.308MW, tổng vốn đầu tư hơn 5 tỷ USD. Trong đó, 3 nhà
máy đã phát điện gồm Duyên Hải 1 (1.245 MW), Duyên Hải 3 (1.245 MW) và Duyên
Hải 3 mở rộng (688 MW).
Ngoài ra,
còn có các dự án đang triển khai như nhiệt điện Sông Hậu (1.200 MW), Trung tâm
nhiệt điện Long Phú, Sóc Trăng (4.400MW),
Các trung
tâm năng lượng đã được đầu tư xây dựng, góp phần quan trọng vào chiến lược an
ninh năng lượng quốc gia. Nhưng điều đáng lo ngại là phần lớn nguồn phát điện ở
ĐBSCL phụ thuộc vào nhiệt điện than trong khi xu hướng thế giới và các lần điều
chỉnh Quy hoạch điện quốc gia đều theo hướng giảm năng lượng hóa thạch, tăng
năng lượng tái tạo.
Theo Báo
cáo mới nhất cuối năm 2018 (www.carbontracker.org), phân tích lợi nhuận của
6.685 nhà máy nhiệt điện than trên thế giới, chiếm 95% (1.900 GW) công suất
nhiệt điện than đang hoạt động, thì 42% nhà máy nhiệt điện than toàn cầu hoạt
động thua lỗ. Trong khi dự báo, năng lượng gió và mặt trời sẽ rẻ hơn 96% điện
than vào năm 2030.
Theo Quy
hoạch Điện VII được điều chỉnh năm 2016, vùng ĐBSCL có 14 nhà máy điện than.
Trong đó, 3 nhà máy đang vận hành là Duyên Hải 1 và Duyên Hải 3 và Duyên Hải 3
mở rộng, còn lại đang xây dựng và phần lớn là trong quy hoạch.
Một số dự
án nhiệt điện than mới bổ sung trong lần điều chỉnh này đang gây tranh cải như
nhiệt điện Tân Phước 1, 2 (Tiền Giang) và Long An nằm liền kề với TP HCM, đặt
ra nhiều thách thức tác động đến môi trường, đời sống kinh tế, xã hội và sinh
kế người dân.
Qua các
cuộc hội thảo diễn ra trong năm 2018, UBND tỉnh Long An cũng đã kiến nghị Bộ
Công Thương giữ nguyên quy hoạch Trung tâm Điện lực Long An nhưng phải sử dụng
nhiên liệu khí hóa lỏng thay cho than đá để hạn chế tác động ảnh hưởng môi
trường.
Nhiệt
điện than đang làm nóng đồng bằng
Việc hình
thành trung tâm điện lực tại ĐBSCL chủ yếu là nhiệt điện than đang đặt ra 3 mối
lo lớn làm nóng đồng bằng. Đó là ô nhiễm nguồn nước, không khí và tác động của
tro xỉ.
Theo các
chuyên gia, nhà máy nhiệt điện than là những cỗ máy tiêu tốn nước khổng lồ.
Tổng lượng nước làm mát cần cho 14 nhà máy nhiệt điện than ở ĐBSCL khoảng 70
triệu m3/ngày đêm. Nhiệt độ của lượng nước này khi ra môi trường cao hơn nhiệt
độ nước đầu vào khoảng 8 độ C, vào mùa hè nước thải ra có thể lên đến gần 40
độ.
Các nhà
máy nhiệt điện than lại được đặt gần biển và sông để tiện cho vận chuyển than
và lấy nước làm mát. Nước nóng thải ra từ các nhà máy sẽ phá hủy hệ sinh thái
dưới nước, ảnh hưởng rất lớn đến đánh bắt và nuôi trồng thủy sản của vùng này.
Tình hình
càng nghiêm trọng hơn nếu chịu tác động kép của nhiệt điện than với biến đổi
khí hậu và ảnh hưởng của thủy điện thượng nguồn dòng chính sông Mekong dẫn tới
tình trạng hạn hán và xâm nhập mặn ở ĐBSCL trong thời gian qua.
Đi sau ô
nhiễm nguồn nước là ô nhiễm không khí từ các nhà máy nhiệt điện than, qúa trình
hoạt động đốt than ngoài phát thải khí CO2 còn phát thải ra các khí độc hại
khác như bụi mịn (PM2.5), khí SO2, Nox... đều ảnh hưởng đến sức khỏe con người.
Theo các nhà khoa học, các loại bụi mịn (PM2.5), SOx, NOx gây ra nhiều loại như
ung thư phối, đột quỵ, bệnh tim và các bệnh hô hấp khác như hen suyễn…
Hiện nay
hầu hết các nhà máy chỉ lọc được bụi mịn, khí SO2, NOx, còn các loại khí độc
hại khác vẫn chưa làm được. Theo Trung tâm Nghiên cứu Ung thư Quốc tế, riêng
PM2.5 đã gây ra khoảng 3 triệu cái chết yểu trên toàn thế giới. Tuy nhiên, cho
đến nay ở Việt Nam chưa thấy có một đánh giá đầy đủ nào về tác động của nhiệt
điện than đến sức khỏe của người dân tại Việt Nam nói chung và cho ĐBSCL nói
riêng.
Cùng với
tác động xấu đến nguồn nước và ô nhiễm không khí, các nhà máy nhiệt điện than
còn thải ra một lượng lớn tro xỉ. Nhưng đến nay, việc xử lý và sử dụng lượng
tro xỉ đó như thế nào đang vẫn đang là bài toán của các ngành liên quan, vấn đề
kinh tế và môi trường chắc chắn rất cần sự “cẩn trọng”. Theo các chuyên gia,
mỗi năm lượng than cần dùng cho 14 nhà máy nhiệt điện ở ĐBSCL ước tính khoảng
64 triệu tấn, ước tính thải ra khoảng 16 triệu tấn tro xỉ.
Mặc dù Thủ
tướng Chính phủ đã ra các quyết định về xử lý tro xỉ, các Bộ - ngành cũng đã
tiến hành hội thảo nhưng quy chuẩn đối với tro xỉ được sử dụng làm nguyên vật
liệu xây dựng như thế nào vẫn chưa được cụ thể hóa nên việc sử dụng tro xỉ vẫn
còn dưới dạng tự phát với số lượng hạn chế, phần lớn là chôn lấp, đây là một
vấn đề nhức nhối cho công tác quản lý tro xỉ trong tương lai ở vùng ĐBSCL.
Bên cạnh
những nỗ lực triển khai các dự án năng lượng lớn ở ĐBSCL, cũng cần xem xét và
tiến hành đánh giá tác động tích lũy của ô nhiễm không khí, nguồn nước và những
tác động đến sức khỏe người dân; công khai dữ liệu về mức phát thải của nhà máy
tại từng thời điểm và hàng năm. Đồng thời, cũng cần phải đánh giá lại phương án
phát triển các nguồn phát điện trong vùng cho phù hợp với nhu cầu phát triển và
liên kết vùng.
Việc phải
xây dựng các nhà máy nhiệt điện than trong tổng sơ đồ nguồn điện như cách giải
bài toán khó trong điều kiện không mong muốn. Nhưng điều quan trọng là cần đẩy
mạnh phát triển năng lượng tái tạo, cân nhắc nghiêm túc các vấn đề có liên
quan. Năm 2019 với lộ trình xây dựng Quy hoạch điện VIII được bắt đầu hứa hẹn
sẽ là một năm có tính chất quyết định cho câu chuyện chuyển dịch năng lượng của
Việt Nam.
Lối mở
từ những “tuốc-bin xanh”
ĐBSCL được
đánh giá là vùng có tiềm năng rất lớn cho phát triển năng lượng tái tạo (NLTT).
Theo
nghiên cứu của Viện Năng lượng cho tổ chức Phát triển Đức (GIZ) đầu năm 2018,
nếu xét chi phí đầu tư một dự án điện mặt trời ở mức 7,5 cent mỹ/KWh với chi
phí sử dụng vốn ở mức 7,8% thì tổng tiềm năng kinh tế của điện mặt trời tại khu
vực đồng bằng Sông Cửu Long lên tới 136.275 MW, điện lượng ước tính lên tới
216,5 tỷ kWh hàng năm. Con số này gấp đôi so với tổng toàn bộ 14 nhà máy nhiệt
điện than mà điện lượng hàng năm ước tính chỉ khoảng 108 tỷ kWh.
Theo các
Quyết định phê duyệt quy hoạch điện gió của Bộ Công thương, chỉ riêng 5 tỉnh
ven biển của đồng bằng là Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau, thì
tổng công suất tiềm năng điện gió đến năm 2020 là 1.272 MW, đến năm 2050 là
10.712 MW, cao hơn nhiều so với tổng công suất tiềm năng điện gió cả nước theo
Quyết định 428/QĐ-TTg ngày 18-3-2016 của Thủ tướng Chính phủ điều chỉnh Tổng sơ
đồ điện lực VII đến năm 2020 là 800 MW, năm 2050 là 6.000 MW.
Hàng loạt
các dự án điện gió đã được đầu tư, khởi công, cấp phép ở các tỉnh ven biển đồng
bằng như: Nhà máy điện gió Bạc Liêu 1 và 2 đã hoàn thành, đã khởi công Nhà máy
điện gió Bạc Liêu 3, Điện gió Khai Long - Cà Mau, Nhà máy điện gió Hàn Quốc -
Trà Vinh, điện gió Bình Đại – Bến Tre, trao giấy phép dự án Điện gió Duyên Hải,
Trà Vinh, thỏa thuận hợp tác Điện gió Phú Cường Sóc Trăng.
Các dự án
điện gió và năng lượng tái tạo ở đồng bằng đang đứng trước cơ hội phát triển
khi công nghệ phát triển nhanh, chi phí đầu tư giảm mạnh. Giá thành sản xuất
điện gió đã giảm 23% trong 7 năm qua và dự báo còn tiếp tục giảm sâu, trở nên
rất cạnh tranh từ năm 2020. Ngoài ra, còn nguồn điện sinh khối cũng được đánh
giá nhiều tiềm năng, kết hợp với thế mạnh nông nghiệp trong chăn nuôi, trồng
trọt.
Trái ngược
với nhiệt điện than, phát triển nguồn điện từ năng lượng tái tạo hầu như không
gây ra các tác động đến môi trường, xã hội. Ngoài ra, với những lợi thế của
mình, phát triển năng lượng tái tạo cũng là cơ hội cho ĐBSCL thúc đẩy những
đồng lợi ích về KT-XH, giúp đa dạng hóa nguồn cung năng lượng, là động lực thúc
đẩy chuỗi giá trị địa phương và đồng thời thời là giải pháp phù hợp nhằm hoàn
thành các mục tiêu Quốc gia về điện khí hóa nông thôn.
Tuy nhiên,
phát triển năng lượng tái tạo không thể cùng lúc tạo ra sự đột phá như việc đổ
tiền vào xây dựng một nhà máy nhiệt điện than có thể phát ra hàng ngàn MW chỉ
trong một thời gian ngắn. Đó là một quá trình nhận thức và chuyển dịch năng
lượng từ “nâu sang xanh”.
Để ĐBSCL
là một “tuốc-bin xanh” rất cần nghiên cứu lại nhu cầu điện của ĐBSCL và phân
tích chi phí và lợi ích của các kịch bản phát triển năng lượng khác nhau theo
mô hình phát triển bền vững để xem xét tính cấp thiết của việc phát triển 14
nhà máy nhiệt điện than như trong Quy hoạch Điện VII và xem xét phát triển điện
từ nguồn năng lượng tái tạo để thay thế nhiệt điện than và bảo đảm an toàn môi
trường.
Bên cạnh
đó, cần các cơ chế chính sách, tài chính để thúc đẩy doanh nghiệp, người dân và
cộng đồng tham gia phát triển và ứng dụng NLTT để đảm bảo an ninh năng lượng,
giảm thiểu nhiệt điện than để giảm thiểu tác động tới môi trường, bảo đảm phát
triển bền vững các ngành truyền thống và thế mạnh của ĐBSCL đặc biệt là nông
nghiệp, thủy sản và du lịch.
Nhận xét
Đăng nhận xét