Hữu Hiệp – Văn Đức
CAND, Thứ
Sáu, 05/08/2022, 07:53
Tầm nhìn dài hạn, mục tiêu phát triển đồng bằng sông Cửu
Long (ĐBSCL) trở thành vùng đất an toàn, trù phú, thịnh vượng trong tương lai
đến nhanh hay chậm đang đòi hỏi những nỗ lực vượt qua các thách thức, tận dụng
thời cơ, hành động đột phá và không hối tiếc.
Con người là trung tâm của sự phát triển
Ngày
22/4, phát biểu kết luận Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện
Nghị quyết số 13-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XIII về phương hướng phát triển
kinh tế - xã hội (KTXH), bảo đảm quốc phòng – an ninh (QPAN) vùng ĐBSCL đến năm
2030, tầm nhìn đến năm 2045, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định, vùng
ĐBSCL thực sự là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế,
văn hoá, xã hội, QPAN và đối ngoại của cả nước; là “Vùng cực Nam - Thành đồng của
Tổ quốc”, cửa ngõ phía Tây Nam của quốc gia.
Phát triển công nghiệp vùng ĐBSCL thời gian qua có nhiều
bước tiến quan trọng.
ĐBSCL
có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng cần được phát huy cao hơn và tiềm năng,
lợi thế to lớn cho phát triển cần được khai thác có hiệu quả hơn trên cơ sở xây
dựng, ban hành, tổ chức triển khai thực hiện thật tốt Nghị quyết của Bộ Chính
trị lần này về phát triển vùng, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu phát triển của vùng
và cả nước trong thời kỳ mới.
Bên
cạnh đó, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết mới lần này là để tiếp tục phát huy
những kết quả thành tựu to lớn đã đạt được, khắc phục những hạn chế, yếu kém
còn tồn tại và vượt qua khó khăn, thách thức mới đang đặt ra. “Việc nghiên cứu,
ban hành và tổ chức triển khai thực hiện thật tốt Nghị quyết lần này sẽ góp
phần để ĐBSCL đứng dậy làm chủ và vươn lên mạnh mẽ hơn nữa trong thời gian tới
cùng cả nước”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh.
Yêu
cầu xuyên suốt trong quá trình phát triển vùng là lấy “con người” làm trung
tâm; chọn “đổi mới sáng tạo, khoa học công nghệ” là chìa khóa phát triển, “văn
hóa” làm nền tảng, coi “tài nguyên nước” là cốt lõi, chuyển đổi mô hình sinh kế
theo hướng chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, các tác động
ngoại cảnh cũng như ứng phó, quản trị tốt rủi ro các yếu tố tiêu cực nội
vùng...
Cùng
với định hướng huy động, bố trí nguồn lực, cần xác định rõ đâu là nhiệm vụ
trọng tâm, địa chỉ chịu trách nhiệm từng đầu việc, thời hạn hoàn thành, nhằm
đảm bảo tính khả thi, hiệu quả. ĐBSCL đang đứng trước cơ hội chuyển đổi sang mô
hình phát triển mới theo hướng gia tăng giá trị, phát huy có hiệu quả các nguồn
lực về con người, khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển KTXH, đảm bảo QPAN
vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 được ban hành trước bối cảnh và
yêu cầu đó.
Khi
nhắc đến vùng ĐBSCL thường gắn với những cụm từ trù phú, lợi thế tài nguyên,
thiên nhiên ưu đãi, nguồn lao động dồi dào nhưng thực tế thì lại khác. Mặc dù
đang nắm giữ nhiều lợi thế để bứt phá, phát triển, nhưng vùng ĐBSCL đang phát
triển phân tán, quy mô nhỏ lẻ, giá trị thấp, chủ yếu phụ thuộc vào khai thác
tài nguyên thiên nhiên.
Đồng
chí Lê Quang Mạnh, Bí thư Thành ủy Cần Thơ khẳng định, Nghị quyết 13 có ý nghĩa
quan trọng với tình hình phát triển hiện tại của thành phố nói riêng và ĐBSCL
nói chung. Để thực hiện mục tiêu đến năm 2030, đồng chí Lê Quang Mạnh cho biết,
TP Cần Thơ đang tập trung xây dựng các cơ chế, chính sách ưu đãi đầu tư, tăng
cường phân cấp, đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh
doanh, đồng thời xây dựng các khu, cụm công nghiệp như: Khu công nghiệp VSIP
Cần Thơ; Trung tâm năng lượng ÔMôn gắn với chuỗi Dự án lô B; các khu công nghệ
cao, công nghệ thông tin; đặc biệt là trung tâm liên kết sản xuất, chế biến,
tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, vùng ĐBSCL tại Cần Thơ nhằm tạo bước đột pháthu
hút đầu tư khu vực tư nhân cũng như các nhà đầu tư nước ngoài.
Theo
ông Nguyễn Hồng Diên, Bộ trưởng Bộ Công Thương, trong quá trình phát triển,
vùng châu thổ Cửu Long vẫn chưa khai thác hết tiềm năng, lợi thế. Sản xuất nông
nghiệp manh mún, chưa bắt kịp tín hiệu của thị trường; nhiều nông sản của vùng
vẫn phụ thuộc vào tiêu thụ qua đường tiểu ngạch, chất lượng sản phẩm không đồng
đều, liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ chưa gắn kết…
Để
phát huy giá trị nông sản, tận dụng tốt cơ hội từ các hiệp định thương mại tự
do thế hệ mới, Bộ Công Thương sẽ phối hợp với các bộ, ngành và địa phương trong
vùng tập xây dựng Chương trình hành động thúc đẩy phát triển nông nghiệp nông
thôn bền vững cho vùng ĐBSCL. Để tận dụng tốt các cơ hội thị trường, lãnh đạo
Bộ Công Thương cũng đề nghị các bộ liên quan và địa phương cần chuẩn hóa quy
hoạch vùng sản xuất nông nghiệp; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ nhằm nâng cao chất
lượng, hàm lượng giá trị của nông sản, tạo tiền đề để xây dựng thương hiệu nông
sản.
Cơ chế vượt trội, hành động đột phá
Trước
tiên, cần phải định rõ lộ trình từ nay đến kết thúc kỳ kế hoạch 5 năm
(2021-2025) và tầm nhìn đến năm 2030. Đặc biệt, chúng ta đang ở thời điểm tái
cấu trúc, định hình lại cách thức phát triển, tính toán nguồn lực quốc gia để
huy động, chuẩn bị các kịch bản phát triển sau đại dịch. Cùng với định hướng
huy động, bố trí nguồn lực, cần xác định rõ đâu là nhiệm vụ trọng tâm.
Theo
đó, cần ưu tiên tháo gỡ các điểm nghẽn phát triển vùng, tạo chuyển biến; xác
định những ưu tiên hàng đầu để phát triển bền vững vùng là lấy con người làm
trung tâm, tài nguyên nước là cốt lõi, phát triển thích ứng, chủ động thuận
thiên trên cơ sở kiến thức, khoa học, chọn công nghệ làm chìa khóa. Bổ sung,
hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách phát triển vùng.
Tiếp
tục xây dựng, bổ sung cơ chế phối hợp, giám sát, đánh giá tiến độ và hiệu quả
của Chương trình hành động tổng thể thực hiện Nghị quyết 120/NQ-CP. Tổ chức rà
soát, đánh giá, tổng kết cơ chế thí điểm điều phối vùng theo Quyết định số
593/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Bên cạnh đó, cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng
và triển khai thực hiện các cơ chế liên kết hiệu quả các tiểu vùng Đồng Tháp
Mười, Tứ giác Long Xuyên, bán đảo Cà Mau, tiểu vùng giữa sông Tiền, sông Hậu và
ven biển phía Đông.
Ngay
sau khi Quy hoạch được phê duyệt, Bộ KH&ĐT đã phối hợp với các bộ, ngành,
địa phương xây dựng Kế hoạch thực hiện quy hoạch, bao gồm 4 nhóm nhiệm vụ trọng
tâm, đó là: Phát triển kinh tế nông nghiệp giá trị cao, hiệu quả cao, chuyển từ
sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, trong đó tập trung phát triển
các trung tâm đầu mối, xây dựng vùng nguyên liệu tập trung, công nghệ cao, đảm
bảo an toàn thực phẩm.
Phát
triển khu vực đô thị - công nghiệp động lực, trong đó tập trung đầu tư xây dựng
hạ tầng giao thông kết nối liên vùng, liên tỉnh, hệ thống logistics, hạ tầng kỹ
thuật của khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp; các công trình nguồn
và lưới điện, phát huy có hiệu quả tiềm năng về dầu khí và năng lượng tái tạo.
Xây
dựng môi trường sống tốt, điểm đến hấp dẫn: Xây dựng và triển khai Chương trình
phát triển các điểm nguồn nước ngọt dự trữ chiến lược trên toàn vùng; nâng cao
chất lượng cung cấp dịch vụ giáo dục – đào tạo, y tế, du lịch có khả năng cạnh
tranh ở cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế tại TP Cần Thơ; chương trình phát
triển th+ương hiệu du lịch ĐBSCL tầm cỡ quốc tế gắn với bảo tồn và phát huy các
giá trị văn hóa, lịch sử; bảo tồn các hệ sinh thái đất ngập nước quan trọng, đa
dạng sinh học biển, hải đảo.
Quản
lý, điều phối thực hiện quy hoạch vùng: Hội đồng điều phối vùng đồng bằng sông
Cửu Long giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo điều phối, đôn đốc, các bộ, ngành,
địa phương triển khai thực hiện thống nhất các nhiệm vụ, chương trình, dự án,
đề án theo Quy hoạch.
Hội
đồng điều phối vùng ĐBSCL với sự tham gia của các bộ, ngành Trung ương và địa
phương đã được thành lập cần có thực quyền, nên tập trung ba lĩnh vực then chốt
là điều phối quy hoạch, quản lý, sử dụng tài nguyên nước và quyết định các dự
án đầu tư có tính liên kết vùng theo quy mô, tính chất dự án.
Phục
vụ cho hoạt động điều phối hiệu quả, cần cập nhật và hệ thống hóa số liệu, dữ
liệu liên ngành, tăng cường điều tra cơ bản để cập nhật đầy đủ các thông tin,
dữ liệu toàn vùng, phục vụ công tác quy hoạch không gian lãnh thổ, xây dựng cơ
cấu kinh tế hợp lý và quy hoạch tổng thể phát triển bền vững vùng. Cần đẩy
nhanh tiến độ xây dựng cơ chế điều phối và vận hành Trung tâm thông tin dữ liệu
vùng để bảo đảm cung cấp thông tin, dữ liệu chính xác, kịp thời cho việc ra
quyết định của Hội đồng điều phối vùng và chính quyền địa phương.
Tổ
chức huy động nguồn lực, xây dựng cơ chế, chính sách mới nhằm phát triển, thu hút
đầu tư, bảo đảm tính liên kết giữa các địa phương trong vùng và với các khu vực
khác. Cần thúc đẩy hình thành các quỹ đầu tư, các cơ chế huy động vốn khuyến
khích cho vay, tăng cường năng lực cho các thành phần kinh tế. Xây dựng cơ chế
tài chính riêng cho vùng thông qua nguồn lực ngoài nước, vốn ODA và hoàn thiện
thể chế về môi trường đầu tư kinh doanh để thu hút đầu tư tư nhân là điều kiện
cần để giải quyết điểm nghẽn vốn đầu tư.
Đầu
tư và phát triển hạ tầng theo quy hoạch và tổ chức không gian lãnh thổ, giải
quyết các “điểm nghẽn” phát triển trong lĩnh vực giao thông vận tải, thích ứng
BĐKH phù hợp với quy hoạch vùng được phê duyệt. Thực hiện nhiệm vụ cấp bách về
chống sạt lở, sụt lún nghiêm trọng tại một số khu vực bờ biển, bờ sông. Các dự
án đầu tư và phát triển hạ tầng phải đảm bảo thống nhất, tính liên vùng, liên
ngành, có trọng tâm, trọng điểm và có lộ trình hợp lý.
Nhận xét
Đăng nhận xét