Trần Hữu Hiệp
TCCSĐT - Tình trạng sản xuất thiếu liên kết,
quy mô nhỏ lẻ, đầu tư dàn trải, thiếu tập trung, mỗi tỉnh, thành phát triển sản
phẩm chủ lực theo kiểu “mạnh ai nấy làm” hoặc mô phỏng lẫn nhau thường dẫn đến
cạnh tranh cục bộ, triệt tiêu nguồn lực. Trong bối cảnh đó, việc tỉnh Hậu Giang
xác định các mặt hàng nông sản chủ lực để tập trung đầu tư phát triển sản xuất
và tiêu thụ là hướng đi đúng, căn cơ. Vấn đề đang đặt ra là cần đặt những nỗ lực
mang tính đột phá của Hậu Giang trong mối liên kết vùng đồng bằng sông Cửu Long
và lợi thế so sánh để phát triển bền vững.
Con đường lúa gạo miền Hậu Giang |
Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn về sản phẩm chủ lực
Sản phẩm chủ lực là khái niệm để chỉ những sản
phẩm có ưu thế cạnh tranh vượt trội, quy mô lớn, tính đồng nhất cao, có sức lan
tỏa và chi phối, có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế của một
địa phương, một vùng lãnh thổ, một quốc gia. Một số quốc gia còn xác định những
sản phẩm chủ lực nhằm hoạch định các cơ chế, chính sách và tổ chức sử dụng hợp
lý tài nguyên, nguồn lực trong nền kinh tế cạnh tranh.
Thực tế cho thấy, có những sản phẩm nhờ lợi thế
đặc thù của vùng, địa phương và tính vượt trội của nó đã trở thành sản phẩm chủ
lực một cách tự nhiên, được nhiều người tiêu dùng trong và ngoài nước biết đến
như là một sản phẩm đặc trưng của vùng và địa phương đó. Một cách khái quát, sản
phẩm chủ lực được thừa nhận với 5 đặc tính căn bản là: (1) Có quy mô lớn và
tính đồng nhất cao, (2) Có năng lực cạnh tranh quốc gia hoặc tầm quốc tế, (3)
Có sức lan tỏa mạnh, (4) Mang tính độc đáo của địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc
gia (5), Sản phẩm có tính an toàn và thân thiện với môi trường.
Vùng đồng bằng sông Cửu Long không chỉ là vựa
lúa gạo, trái cây, thủy sản mà còn là nơi bảo đảm “sức khỏe”cho nền nông nghiệp
cả nước. Thực tế cho thấy, các sản phẩm chủ lực của đồng bằng sông Cửu Long như
lúa gạo, tôm, cá tra và trái cây đã có nhiều đóng góp to lớn trong phát triển
kinh tế - xã hội vùng và cả nước. Thời gian qua, một số tỉnh, thành trong vùng
dựa vào lợi thế, tiềm năng và yêu cầu phát triển đã xác định một số sản phẩm chủ
lực của mình. Tỉnh Tiền Giang phát triển các sản phẩm chủ lực như: vú sữa Vĩnh
Kim, thanh long Chợ Gạo, sầu riêng Ngũ Hiệp, sơ ri Gò Công, khóm Tân Lập, bưởi
lông Cổ Cò, xoài cát Hoà Lộc, nếp bè Chợ Gạo, lúa chất lượng cao, rau an toàn,
các sản phẩm nuôi trồng thủy sản (cá tra, tôm, nghêu), giống thuỷ sản, giống
lúa và các giống cây khác,... Tỉnh Vĩnh Long chọn các sản phẩm lúa gạo, trái
cây, thủy sản, gốm mỹ nghệ, du lịch sinh thái miệt vườn,... Tỉnh Bến Tre ưu
tiên “công nghiệp mũi nhọn” dệt may, da giày, chế biến nông, lâm, thủy hải sản,
các sản phẩm từ dừa,… Thành phố Cần Thơ chọn các sản phẩm thuộc 3 lĩnh vực nông
nghiệp - thủy sản, công nghiệp chế biến và thương mại - dịch vụ như: lúa gạo,
trái cây, cá nuôi nước ngọt, thực phẩm đồ uống, hóa chất, dược phẩm, thương mại,
nhà hàng - khách sạn, du lịch, vận tải, dịch vụ tài chính, y tế, đào tạo,
logistics ...
Ở cấp độ vùng, Thủ tướng Chính phủ đã giao Ban
Chỉ đạo Tây Nam Bộ cùng với Trường Đại học Cần Thơ, Viện Lúa đồng bằng sông Cửu
Long, Viện Nghiên cứu cây ăn quả Miền Nam phối hợp với các bộ, ngành liên quan
và 13 tỉnh, thành trong vùng đề xuất cơ chế, chính sách đặc thù cho các sản phẩm
chủ lực của vùng. Theo đó, Đề án liên kết vùng đồng bằng sông Cửu Long trong
nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã được xây dựng với 5 dự án sản xuất và tiêu
thụ các sản phẩm chủ lực của vùng là: lúa gạo, cây ăn trái, thủy sản (tôm, cá
tra). Thực tế nhiều năm qua cho thấy, các mặt hàng lúa gạo, cây ăn trái, thủy sản
với những ưu thế cạnh tranh vượt trội, sản lượng lớn, giá trị kim ngạch xuất khẩu
và tiêu dùng nội địa cao, có sức lan tỏa và chi phối đã trở thành các sản phẩm
chủ lực của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó, lúa gạo, tôm, cá tra còn là
sản phẩm chủ lực quốc gia với sản lượng và giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng đầu
trong nhóm hàng nông sản của Việt Nam. Ngày 06-4-2016, Thủ tướng Chính phủ đã
ban hành Quyết định số 593/QĐ-TTg “Về việc thực hiện cơ chế thí điểm liên kết
vùng đồng bằng sông Cửu Long” mà nội dung trọng tâm là liên kết phát triển chuỗi
giá trị các sản phẩm chủ lực vùng là lúa gạo, thủy sản và trái cây. Như vậy,
các sản phẩm chủ lực ở nước ta đang được nhìn nhận theo 3 cấp độ: địa phương, cấp
vùng và quốc gia.
Thực trạng
và định hướng phát triển các nông sản chủ lực Hậu Giang từ góc nhìn lợi thế so
sánh vùng
Hậu Giang là tỉnh được thành lập sau cùng
trong vùng đồng bằng sông Cửu Long (năm 2004) với xuất phát điểm thấp của nền
kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Theo Báo cáo của Ủy ban nhân dân tỉnh Hậu
Giang, sau 10 năm thành lập tỉnh, tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất khu vực
nông nghiệp đạt 7,79%/năm. Đây là mức tăng trưởng khá cao. Tỉnh đã xây dựng được
các vùng nguyên liệu nông sản chuyên canh với quy mô khá lớn, đáp ứng được nhu
cầu tiêu dùng nội địa và chế biến xuất khẩu như: vùng lúa chất lượng cao 32.000
ha, vùng nguyên liệu mía 10.300 ha, vùng khóm 1.500 ha, vùng cây ăn trái đặc sản
2.500 ha, vùng nuôi trồng thủy sản tập trung 1.500 ha. Nông sản hàng hóa của tỉnh
ngày càng đa dạng và đi vào chất lượng, hiệu quả. Một số mặt hàng nông sản bước
đầu hình thành mối liên kết “bốn nhà”, hoạt động ứng dụng khoa học - công nghệ
vào sản xuất ngày càng phát huy hiệu quả, tăng tỷ lệ cơ giới hóa trong sản xuất
nông nghiệp, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản.
Qua 12 năm xây dựng và phát triển, trong bối cảnh
hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay, một trong những vấn đề có
tính cấp thiết đã và đang đặt ra là Hậu Giang cần tiếp tục gắn kết chặt chẽ với
mối quan hệ nội vùng, đồng thời phải tìm ra những lợi thế so sánh để tăng cường
năng lực cạnh tranh của tỉnh từ những sản phẩm chủ lực.
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội
tỉnh Hậu Giang đến năm 2020 nêu rõ: Nông - lâm - ngư nghiệp có vị trí rất quan
trọng trong quá trình phát triển. Từ định hướng đó, tỉnh đã có chủ trương chọn
sản phẩm chủ lực là “5 cây”: lúa, mía, cây ăn trái, khóm, rau màu và “5 con”:
trâu, bò, heo, gia cầm, thủy sản để phát triển theo chiều sâu và tập trung, nhằm
tạo bước đột phá mới cho ngành nông nghiệp. Trong đó, một số loại đặc sản nông
nghiệp của tỉnh đã được xây dựng thương hiệu, được thị trường cả nước biết đến
như: bưởi Năm Roi Phú Hữu, khóm Cầu Đúc, cá thát lát, lúa Hậu Giang 1(HG1), lúa
Hậu Giang 2 (HG2),…
Việc Hậu Giang xác định “5 cây, 5 con” chủ lực
của tỉnh, trong đó có một số sản phẩm chủ lực của vùng và quốc gia là định hướng
đúng. Tuy nhiên, để những sản phẩm được lựa chọn thực sự là chủ lực, có sức cạnh
tranh cao trên thị trường, một yêu cầu lớn đang đặt ra là tỉnh cần phải có một
“chiến lược sản phẩm” với hệ thống giải pháp đồng bộ từ qui hoạch, đầu tư, tổ
chức sản xuất - liên kết, thị trường, nguồn nhân lực trên cơ sở phát huy tối đa
những lợi thế so sánh và phải gắn với liên kết vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Điều đáng quan tâm là trong các sản phẩm chủ lực
của Hậu Giang có nhiều sản phẩm mà các địa phương khác cũng chọn làm sản phẩm
chủ lực; trong đó, lúa gạo, thủy sản, trái cây còn là sản phẩm chủ lực của vùng
và của quốc gia. Thực tiễn cho thấy, một số sản phẩm mà Hậu Giang chọn làm sản
phẩm chủ lực chưa thực sự có “lợi thế cạnh tranh” mạnh về quy mô, sản lượng, nếu
xét dưới góc nhìn so sánh vùng. Vấn đề cần lưu ý là hiện nay vùng nguyên liệu
không đóng khung trong ranh giới hành chính tỉnh. Nhiều doanh nghiệp (lúa gạo,
thủy sản, mía đường, trái cây) tuy đặt trụ sở tại một tỉnh nhưng luôn quan tâm
xây dựng vùng nguyên liệu hoặc tổ chức thu mua nguyên liệu ở nhiều tỉnh khác.
Thực tế đó đòi hỏi phải tăng cường phối hợp liên tỉnh, liên kết vùng.
Những lợi thế, tiềm năng sẵn có của Hậu Giang
muốn phát huy tốt đòi hỏi và phụ thuộc rất nhiều vào hiệu quả đầu tư phát triển
sắp tới. Để đi từ lợi thế so sánh đến lợi thế cạnh tranh là một quá trình, phụ
thuộc nhiều vào hiệu quả đầu tư và nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. Điều
đó đặt ra yêu cầu cho Hậu Giang là phải vừa nâng cao năng lực cạnh tranh từ “thế
yếu” (nhỏ về quy mô, sản lượng) sang đầu tư chiều sâu để nâng cao chất lượng bằng
hàm lượng chất xám, quy hoạch kết nối sản xuất - thị trường, tổ chức sản xuất,
cải cách thể chế; đồng thời phải tăng cường liên kết với các tỉnh, thành khác
trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, tạo ra thế “cạnh tranh trong liên kết” chứ
không phải “cạnh tranh đối đầu”. Đặc biệt, Hậu Giang cần nhanh chóng xây dựng,
phát huy vai trò của Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đã được Thủ tướng
Chính phủ quyết định thành lập; hình thành Trung tâm nông nghiệp ứng dụng công
nghệ cao với nòng cốt là các doanh nghiệp tham gia đầu tư. Đây là những hạt
nhân để tạo ra công nghệ cao phục vụ nông nghiệp hoặc ứng dụng công nghệ cao sản
xuất ra các sản phẩm nông nghiệp có giá trị cao trong trồng trọt, chăn nuôi, thủy
sản, chuyển giao công nghệ cao trong lĩnh vực nông nghiệp cho Hậu Giang và các
địa phương khác trong vùng.
Đề xuất
một số nhóm giải pháp
Từ những vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn
phát triển các sản phẩm chủ lực của tỉnh Hậu Giang, cũng như định hướng trong
thời gian tới, xét trong góc nhìn liên kết vùng và lợi thế so sánh của tỉnh, để
nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm chủ lực này trên thị trường, trong thời
gian tới tỉnh Hậu Giang cần tập trung thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp sau:
Nhóm giải
pháp về quy hoạch - đầu tư
Rà soát, hoàn chỉnh quy hoạch theo hướng nâng
cao chất lượng, hiệu quả, dựa trên lợi thế cạnh tranh của các sản phẩm chủ lực
được lựa chọn, tránh dàn trải để tập trung đầu tư chiều sâu. Khẩn trương triển
khai Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, tăng cường liên kết vùng phát triển
sản xuất và tiêu thụ, xây dựng các “Cluster (cụm ngành) lúa gạo, trái cây, thuỷ
sản” của vùng. Trong đó, nên lựa chọn lợi thế cạnh tranh từ những sản phẩm chủ
lực như lợi thế về chế biến, xuất khẩu tôm đã được đầu tư từ Công ty Minh Phú -
Hậu Giang, Công ty Cafatex,…
Đổi mới tư duy về phương pháp đầu tư, chuyển từ
đầu tư theo “đoạn” sang đầu tư theo “chuỗi” sản xuất. Đầu tư theo chuỗi sẽ giúp
tỉnh tránh trường hợp tập trung đầu tư không cân đối trong chuỗi, có đoạn phình
to nhưng có đoạn lại teo tóp, gây ra tình trạng mất ổn định trong sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm. Muốn vậy, trước tiên cần xác định sản phẩm phải trải qua những
công đoạn nào trong chuỗi sản xuất để quy hoạch và xây dựng chính sách thu hút
đầu tư phù hợp.
Nhóm giải
pháp về khoa học và công nghệ
Để khắc phục tình trạng sản xuất theo kinh
nghiệm truyền thống, công nghệ lạc hậu, dẫn đến chất lượng sản phẩm kém, không
đồng bộ cần áp dụng quy trình sản xuất tiên tiến một cách đồng bộ tại các khâu
giống, nuôi trồng và chế biến như: phát triển công nghệ sinh học, áp dụng rộng
rãi VietGap, GlobalGap trong sản xuất nông nghiệp, phát triển công nghệ thu hoạch
và sau thu hoạch để giảm thất thoát, nâng cao chất lượng và gia tăng giá trị của
sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản …
Nhóm giải
pháp về thị trường và liên kết
Tỉnh cần tăng cường đầu tư cho công tác điều
tra, nghiên cứu, dự báo thị trường; tổ chức hội chợ triển lãm trong nước và nước
ngoài để các doanh nghiệp tham gia giới thiệu, quảng bá các sản phẩm chủ lực của
địa phương. Tăng cường liên kết vùng chuyên canh và tập trung sản xuất, liên kết
chuỗi sản xuất, liên kết thị trường - doanh nghiệp và liên kết vùng đồng bằng
sông Cửu Long; tiếp tục tổ chức mạng lưới liên kết theo mô hình các “Cluster
cây ăn trái” làm hạt nhân liên kết chặt chẽ hơn so với các hình thức hợp đồng
tiêu thụ nông sản lỏng lẻo, thường bị phá vỡ hợp đồng do những biến động về giá
cả như thời gian qua.
Nhóm giải
pháp về nguồn nhân lực
Hiện nay, phần lớn lao động của tỉnh Hậu Giang
chưa được đào tạo chuyên môn kỹ thuật một cách căn bản vì đa số xuất thân từ
nông thôn, hoạt động sản xuất - kinh doanh chủ yếu bằng khả năng và kinh nghiệm
mang tính truyền thống. Vì thế, việc chuyển giao, ứng dụng các tiến bộ khoa học
- công nghệ mới gặp nhiều khó khăn. Đội ngũ cán bộ quản lý còn thiếu kiến thức
và kỹ năng, dẫn đến quản lý điều hành mang tính tự phát, cảm tính và thiếu tầm
nhìn. Vì vậy, tỉnh cần có quy hoạch, phân luồng đào tạo chuyên môn và dạy nghề,
đặc biệt chú trọng phát triển nguồn nhân lực có trình độ tay nghề cao, phù hợp,
cán bộ quản lý có năng lực để cung cấp cho các doanh nghiệp, nhà sản xuất hay
khu công nghiệp sản xuất hàng hóa chủ lực của tỉnh và của vùng đồng bằng sông Cửu
Long.
Phát triển sản phẩm chủ lực là một yêu cầu tất
yếu, khách quan nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh của hàng hóa và khai thác
hiệu quả tiềm năng, lợi thế vượt trội của từng tỉnh, thành và cả vùng đồng bằng
sông Cửu Long. Vì thế, cần triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm tháo
gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc, bảo đảm cho sản phẩm chủ lực phát triển
một cách ổn định và bền vững.
Song song với việc khẩn trương triển khai xây
dựng Khu Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Hậu Giang lồng ghép với phát triển
các sản phẩm chủ lực của tỉnh và của vùng, Hậu Giang cần có cơ chế, chính sách
tốt nhằm phát huy mạnh mẽ các nguồn vốn sáng tạo thúc đẩy khởi nghiệp, khoa học
- công nghệ; khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp - nông thôn, khuyến
khích nông dân khởi nghiệp, khuyến khích các mô hình nông nghiệp sáng tạo.
Đề nghị Chính phủ xem xét, ban hành cơ chế,
chính sách đặc thù thu hút đầu tư vào các sản phẩm chủ lực của vùng đồng bằng
sông Cửu Long, trong đó có một số sản phẩm chủ lực của tỉnh. Đồng thời, tập
trung hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế, khai thông các kênh tín dụng (vốn
ngân sách, vốn ODA, vốn FDI, vốn doanh nghiệp tham gia, vốn tín dụng ngân
hàng).
Từ các hình thức “liên kết nhà nước” giữa các
chính quyền các tỉnh, thành trong vùng với nhau và với thành phố Hồ Chí Minh, với
các bộ, ngành trung ương như thời gian qua, cần mở rộng và tăng cường liên kết
với doanh nghiệp, liên kết thị trường dựa trên nền tảng lợi ích. Trên cơ sở đó
tổ chức nghiên cứu, ứng dụng, tập huấn, chuyển giao khoa học - công nghệ gắn với
từng Cluster chuyên ngành để tạo ra các sản phẩm chủ lực có giá trị gia tăng và
sức cạnh tranh cao trên thị trường./.
Nhận xét
Đăng nhận xét