Trần Hữu Hiệp
Tái cấu trúc ngành hàng và thị trường gạo
đang là đòi hỏi bức bách hơn là định chỉ tiêu xuất khẩu gạo. Trong ảnh: Kho gạo
của một doanh nghiệp ở
(TBKTSG) - Việc thay đổi tư duy sản xuất
và xuất khẩu gạo là đúng, đã nói đến nhiều nhưng vì sao đến nay vẫn chưa làm
được và sắp tới phải làm như thế nào để nông dân, người dân được hưởng lợi
nhiều hơn? Câu trả lời không nằm ở chỗ giảm lượng gạo xuất khẩu xuống còn 2-3
triệu tấn thay cho 7-8 triệu tấn gạo hàng năm.
Vấn đề không phải là xuất khẩu bao nhiêu
tấn gạo mỗi năm
Không phải ngẫu nhiên mà Hiệp hội Lương thực Việt Nam
(VFA) muốn giảm lượng gạo xuất khẩu xuống gần 3 lần so với hiện tại. Thống kê
xuất khẩu gạo cả nước 11 tháng đầu năm 2016 chỉ đạt hơn 4,5 triệu tấn,
giảm 25% về lượng, 20% về giá trị so với cùng kỳ năm trước. Ước xuất khẩu gạo
cả năm chỉ đạt khoảng hơn 5 triệu tấn. Tham luận tại tại hội thảo “Định hướng
phát triển thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam” do Bộ Công Thương tổ chức tại
TPHCM gần đây, ông Huỳnh Thế Năng, Chủ tịch VFA đã nêu nhiều lý do xác đáng cho
việc này. Chính sách và năng lực tự túc lương thực cùng với xu hướng bảo hộ
ngày càng tăng của các quốc gia vốn là bạn hàng nhập khẩu gạo truyền thống của
Việt Nam như Trung Quốc, Philippines, Indonesia... buộc chúng ta phải điều
chỉnh chính sách. Các khuyến nghị được đưa ra là giảm lượng gạo xuất khẩu,
trồng nhiều hơn lúa chất lượng cao, chuyển đổi diện tích lúa sang cây trồng, vật
nuôi khác...
Nhưng việc này đã được đề cập từ nhiều năm rồi. Nghị
quyết 63/NQ-CP ngày 23-12-2009 về đảm bảo an ninh lương thực quốc gia đã xác
định mục tiêu đến năm 2020, chúng ta chỉ sản xuất khoảng 41-43 triệu tấn lúa,
đáp ứng tổng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu chỉ khoảng 4 triệu tấn
gạo/năm. Nhưng ngay sau đó, xuất khẩu gạo vẫn liên tục tăng, lượng gạo xuất
khẩu năm 2012 đã vượt ngưỡng 8 triệu tấn và từ đó đến nay, hàng năm nước ta
xuất khẩu gạo khoảng 6-7 triệu tấn. Cần lý giải nguyên nhân của thực trạng này
để chuyển đổi căn bản, toàn diện, thực chất ngành hàng lúa gạo hơn là tiếp tục
đưa ra chỉ tiêu số lượng. Cần sự tiếp cận và giải quyết tổng thể, đa ngành, gắn
với tái cơ cấu nông nghiệp. Cần phải định hướng điều chỉnh theo xu hướng giảm hợp
lý lượng gạo xuất khẩu, tăng giá trị. Nhưng vấn đề không phải là định ra chỉ
tiêu xuất khẩu bao nhiêu tấn gạo mỗi năm!
Xuất khẩu gạo không phải vì doanh nghiệp
xuất khẩu gạo
Doanh nghiệp kinh doanh lương thực là một tác nhân
quan trọng trong chuỗi giá trị ngành hàng lúa gạo Việt Nam hiện nay. Dù là
“công dân” của một cường quốc xuất khẩu gạo trên thế giới, nhưng bản thân nhiều
doanh nghiệp gạo Việt, từ cấu trúc đến thị trường, tài chính, sức mạnh cạnh
tranh... đều đang “có vấn đề”.
Thực hiện Nghị định 109/2010/NĐ-CP ngày 4-11-2010 của Chính phủ về kinh doanh xuất khẩu gạo, có hơn 100 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu gạo trực tiếp. Trừ Công ty Kitoku của Nhật Bản liên doanh với Công ty Agimex của An Giang xuất khẩu lúa Nhật, thì gần như chưa có doanh nghiệp nước ngoài nào ở Việt Nam trực tiếp xuất khẩu gạo. Các đơn vị hội viên VFA như Vinafood 2, Vinafood 1 và các doanh nghiệp thành viên của hai “ông lớn” này ở các tỉnh là những tác nhân chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu gạo Việt nhiều năm liền. Theo Oxfam (2013), trong tổng lượng gạo xuất khẩu năm 2008 của cả nước, thì 10 công ty hàng đầu đã chiếm 70%. Đến năm 2012, mặc dù tỷ lệ này đã giảm xuống còn 56,93%, nhưng vẫn chiếm tỷ trọng chi phối trong ngành. Chỉ riêng Vinafood 2 và Vinafood 1 đã chiếm tỷ trọng khoảng 40% và hầu như các hợp đồng bán gạo Chính phủ (G to G) đều rơi vào nhóm doanh nghiệp nhà nước. Ngành xuất khẩu gạo Việt Nam (đồng bằng sông Cửu Long chiếm hơn 90%) đã có tập trung đầu mối và tập trung thị trường rất cao, vừa thể hiện mặt tích cực, nhưng cũng bộc lộ những khiếm khuyết.
Thực hiện Nghị định 109/2010/NĐ-CP ngày 4-11-2010 của Chính phủ về kinh doanh xuất khẩu gạo, có hơn 100 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu gạo trực tiếp. Trừ Công ty Kitoku của Nhật Bản liên doanh với Công ty Agimex của An Giang xuất khẩu lúa Nhật, thì gần như chưa có doanh nghiệp nước ngoài nào ở Việt Nam trực tiếp xuất khẩu gạo. Các đơn vị hội viên VFA như Vinafood 2, Vinafood 1 và các doanh nghiệp thành viên của hai “ông lớn” này ở các tỉnh là những tác nhân chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu gạo Việt nhiều năm liền. Theo Oxfam (2013), trong tổng lượng gạo xuất khẩu năm 2008 của cả nước, thì 10 công ty hàng đầu đã chiếm 70%. Đến năm 2012, mặc dù tỷ lệ này đã giảm xuống còn 56,93%, nhưng vẫn chiếm tỷ trọng chi phối trong ngành. Chỉ riêng Vinafood 2 và Vinafood 1 đã chiếm tỷ trọng khoảng 40% và hầu như các hợp đồng bán gạo Chính phủ (G to G) đều rơi vào nhóm doanh nghiệp nhà nước. Ngành xuất khẩu gạo Việt Nam (đồng bằng sông Cửu Long chiếm hơn 90%) đã có tập trung đầu mối và tập trung thị trường rất cao, vừa thể hiện mặt tích cực, nhưng cũng bộc lộ những khiếm khuyết.
Xuất khẩu gạo Việt Nam sắp tới nên trọng cung hay
trọng cầu? Câu trả lời không quan trọng hơn cách làm, phải trọng cầu, phải xuất
phát từ nhu cầu của thị trường, nhưng cũng không thể bỏ qua “năng lực cung” của
ngành hàng lúa gạo Việt Nam.
Điểm yếu cốt lõi là, hầu hết doanh nghiệp xuất khẩu
gạo chưa có liên kết, hợp tác chặt chẽ với nhau, chủ yếu tự mình tìm kiếm khách
hàng. Vai trò của VFA cũng còn nhiều hạn chế trong việc thúc đẩy liên kết
chuỗi. Những nỗ lực đáng ghi nhận là của Tập đoàn Lộc Trời trong việc triển
khai cánh đồng lớn, liên kết với nông dân, bán cổ phần cho nông dân; ký kết đối
tác hợp tác chiến lược phát triển nông nghiệp bền vững với Đạm Cà Mau (PVCFC),
với tập đoàn Syngenta (Thụy Sỹ). Gần đây Vinafood 2 đã bắt đầu nỗ lực trong
việc tái cấu trúc các đơn vị thành viên, quan tâm triển khai một số hoạt động
liên kết, xây dựng thương hiệu gạo, cũng cần được ghi nhận. Nhưng nhìn chung,
các nhà xuất khẩu gạo lớn của Việt Nam vẫn chưa có sự liên minh, liên kết chặt
chẽ với nhau và với các doanh nghiệp xuất khẩu gạo ở các nước khác để đạt được
thế mặc cả cao hơn trên thị trường.
Trong bối cảnh đó, thì việc đặt ra chỉ tiêu xuất khẩu
gạo bao nhiêu tấn mỗi năm để rồi phải lấy “công cụ hành chính” để gò ép, liệu
có khả thi?
Làm gì cho gạo ăn và gạo xuất?
Cân đối hài hòa giữa tiêu dùng trong nước và xuất khẩu
lương thực, thực phẩm. Xây dựng cơ chế điều hành xuất khẩu lương thực, thực
phẩm linh hoạt, phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là yêu
cầu đặt ra nhiều năm nay vẫn chưa làm được. Nhà nước tham gia chuỗi giá trị lúa
gạo với vai trò của một tác nhân quan trọng. Nhà nước hoạch định cơ chế, chính
sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chỉ đạo sản xuất lúa, điều tiết thị
trường, xuất khẩu gạo, gắn với chiến lược an ninh lương thực quốc gia. Nhiều
chủ trương, chính sách của Nhà nước đã mang lại thành tựu to lớn của ngành lúa
gạo, nhưng cũng còn nhiều cơ chế, chính sách bất cập, chưa đi vào trọng tâm,
không đồng bộ, chậm đi vào cuộc sống, thực hiện rời rạc, lãng phí nguồn lực.
Ngành hàng lúa gạo có vai trò quyết định trong việc
đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Không thể bỏ qua yêu cầu tiếp cận an ninh
lương thực theo “đường cung” thể hiện qua các chính sách về đổi mới tổ chức sản
xuất, đảm bảo an toàn sản xuất, cung ứng và dự trữ lương thực quốc gia, đảm bảo
an toàn sản xuất, cung ứng và dự trữ lương thực. Tuy nhiên, cần phải tiếp cận
an ninh lương thực gắn với vai trò của ngành hàng lúa gạo, trong đó có việc
xuất khẩu gạo và tiêu thụ nội địa. Theo đó, tiếp cận an ninh lương thực theo
“đường cầu” thể hiện qua các chính sách về đảm bảo an toàn nhu cầu lương thực,
đa dạng sinh kế, gắn với xây dựng nông thôn mới; đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng cho
người dân, thu nhập cho người trồng lúa, xây dựng nông thôn mới.
Đã đến lúc chúng ta cần hành động cho việc nhận thức
lại về ngôi vị “cường quốc xuất khẩu gạo”. Xuất gạo thô vốn có giá trị gia tăng
rất thấp trong khi nhiều quốc gia kém lợi thế hơn đang chọn con đường “sáng
tạo” hơn là phát triển các ngành công nghiệp sau gạo. Ngành lúa gạo nước ta cần
vượt qua dấu chân lấm bùn của kinh tế tự nhiên, kinh nghiệm nông nghiệp truyền
thống để bước sang kinh tế tri thức, tham gia vào chuỗi giá trị công nghiệp
sáng tạo toàn cầu.
Trở lại câu hỏi xuất khẩu gạo Việt Nam sắp tới nên
trọng cung hay trọng cầu. Câu trả lời không quan trọng hơn cách làm, phải trọng
cầu, phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường, nhưng cũng không thể bỏ qua
“năng lực cung” của ngành hàng lúa gạo Việt Nam. Phải chuyển đổi để thích ứng
trước nhiều thay đổi nhanh chóng. Tái cấu trúc ngành hàng và thị trường gạo
đang là đòi hỏi bức bách hơn là định chỉ tiêu xuất khẩu gạo. Vai trò của các cơ
quan nhà nước với các vấn đề xuyên suốt vượt ra ngoài khuôn khổ nông nghiệp
truyền thống, cần bớt chỉ đạo, tăng kiến tạo, hỗ trợ doanh nghiệp và nông dân
nhiều hơn bằng chính sách và công cụ mà chỉ Nhà nước mới có.
Mời xem thêm
Nhận xét
Đăng nhận xét