Giáo dục đại học, cao đẳng ở đồng bằng sông Cửu Long: Thực trạng và vài khuyến nghị từ góc nhìn thực tiễn
Trần Hữu Hiệp
TCCSĐT - Sau hơn 6 năm triển khai thực hiện Quyết định số
1033/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ “Về phát triển giáo dục, đào tạo và dạy
nghề vùng đồng bằng sông Cửu Long, giai đoạn 2011 - 2015, định hướng đến năm
2020”, công tác giáo dục - đào tạo bậc đại học, cao đẳng ở vùng đồng bằng sông
Cửu Long đã có những chuyển biến tích cực về qui mô trường lớp, số lượng người
học, chất lượng lao động qua đào tạo,… Tuy nhiên, từ góc nhìn thực tiễn, lĩnh
vực này cũng đang bộc lộ nhiều bất cập, lộ diện những “mảng tối” cần được định
hướng lại và can thiệp bằng những chính sách, giải pháp phù hợp trong tình hình
mới.
Những “điểm sáng”
Thời gian qua, giáo dục đại học, cao đẳng cùng với trung
cấp chuyên nghiệp và dạy nghề đã góp phần quan trọng nâng cao dân trí, chất
lượng nguồn nhân lực vùng đồng bằng sông Cửu Long. Toàn vùng hiện có 17 trường
đại học (trong có 6 trường đại học ngoài công lập), 26 trường cao đẳng, 62 cơ
sở đào tạo trung cấp chuyên nghiệp. Nếu như năm 2000, toàn vùng chỉ duy nhất ở
Cần Thơ có Trường Đại học Cần Thơ thì đến nay, 10/13 tỉnh, thành đã có trường
đại học; 3 tỉnh còn lại là Cà Mau có Chi nhánh Đại học Bình Dương, Bến Tre có
Chi nhánh Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Sóc Trăng đã có chủ trương
đầu tư trường đại học tư thục. Riêng thành phố Cần Thơ hiện có 4 trường đại
học, Vĩnh Long có 3 trường đại học. Theo quy hoạch, đến năm 2020, vùng đồng
bằng sông Cửu Long sẽ có khoảng 70 trường đại học, cao đẳng - bình quân mỗi
tỉnh, thành có gần 5,4 trường đại học, cao đẳng.
Ngoài ra, còn nhiều chương trình liên kết, đề án đào tạo
đại học, sau đại học do Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, các bộ, ngành trung ương, các
địa phương triển khai thực hiện; các đề án đặc thù đào tạo bác sĩ, chuyên ngành
y dược, kiến trúc, kinh tế … của các trường: Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí
Minh, Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí
Minh. Chương trình Mê Kông 1.000 là kết quả nỗ lực phối hợp giữa Trường Đại học
Cần Thơ cùng với các tỉnh, thành trong vùng đến nay đã đào tạo hơn 500 tiến sĩ,
thạc sĩ ở nước ngoài. Những kết quả này được ghi nhận là những “điểm sáng”
trong giáo dục đại học, cao đẳng của vùng.
Còn “mảng tối”: Thực trạng từ “vùng trũng về giáo dục - đào
tạo”
Nhu cầu nguồn nhân lực, trong đó có nhân lực bậc đại học,
cao đẳng phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long
đang đặt ra bài toán khó. Việc giải bài toán đó thời gian qua và hiện nay đang
bộc lộ nhiều bất cập trong tư duy, cách thức thực hiện, thể hiện qua các vấn đề
thực tiễn sau:
Đại học tư: “chàng Trương Ba” hay “anh hàng thịt”?
Xã hội hóa đầu tư cho giáo dục đại học, cao đẳng là một chủ
trương đúng. Bên cạnh cách trường công lập, các trường ngoài công lập đã ra
đời, chiếm vị trí quan trọng trong hệ thống giáo dục đại học, cao đẳng của vùng
đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên, thực tiễn đang tồn tại một câu hỏi cũ chưa
có lời giải mới: Đầu tư tư nhân cho giáo dục đại học ở Việt Nam nói chung và
vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng vì mục tiêu lợi nhuận hay phi lợi nhuận?
Đại học ngoài công lập là “chàng Trương Ba” hay “anh hàng thịt”?
Luật Giáo dục đại học năm 2013 quy định: Cơ sở giáo dục đại
học tư thục và cơ sở giáo dục đại học có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động không
vì lợi nhuận. Phần lợi nhuận tích lũy được hằng năm là tài sản chung không
chia, để tái đầu tư phát triển cơ sở giáo dục đại học; các cổ đông hoặc các
thành viên góp vốn không hưởng lợi tức hoặc hưởng lợi tức hằng năm không vượt
quá lãi suất trái phiếu Chính phủ.
Thế nhưng, thời gian qua đã có nhiều ý kiến than phiền rằng
các trường đại học tư thục được tổ chức và hoạt động theo mô hình doanh nghiệp,
có cổ đông, hội đồng quản trị, ban kiểm soát và ban giám hiệu. Về cơ cấu quyền
lực, mặc dù phải có một số thành viên đương nhiên, nhưng hội đồng quản trị của
trường biểu quyết theo nguyên tắc đối vốn, tức theo nguyên tắc hoạt động của
doanh nghiệp. Ngay cả quy định về nghĩa vụ thuế của các trường này cũng được áp
tương tự doanh nghiệp.
Khung pháp lý hiện nay đang trộn lẫn trường vì lợi nhuận và
phi lợi nhuận. Thực tế cho thấy, chính từ sự nhập nhằng và những khe hở
pháp lý mà không ít trường đại học xử sự và bị đối xử như một doanh nghiệp.
Ngược lại, có trường hợp nhân danh “phi lợi nhuận” để được hỗ trợ của Nhà nước
và ủng hộ của công chúng, khó tránh tình trạng trường học cũng “chuyển giá” như
doanh nghiệp để hạch toán “lời thật lỗ giả”, nhằm giảm chi phí và trốn tránh
nghĩa vụ thuế. Trên thực tế đã nảy sinh các xung đột lợi ích liên quan đến sở
hữu cổ phần, chia lợi tức, quản trị điều hành... ở một số trường đại học ngoài
công lập.
Hoạt động phi lợi nhuận không có nghĩa là không có lợi
nhuận. Vấn đề mang tính quyết định là cách ứng xử với lợi nhuận. Khi xã hội
phát triển, hoạt động giáo dục trở thành một dịch vụ đặc biệt; nhu cầu xã hội
càng cao, hoạt động này càng mang lại lợi nhuận cao, đòi hỏi phải được kiểm
soát một cách chặt chẽ. Xã hội cần “phần hồn” trí tuệ của “chàng Trương Ba”,
nhưng cũng khó có thể tránh được “cái xác” cục mịch, trần trụi rất đời thường
của “anh hàng thịt” trong nhiều trường đại học, cao đẳng ở Việt Nam nói chung
và đồng bằng sông Cửu Long nói riêng. Vấn đề là phải có cơ chế phòng ngừa để
không dẫn đến phần lỗi nghiêm trọng tạo ra nghịch cảnh “hồn Trương Ba, da hàng
thịt” của các trường đại học, cao đẳng. Đó không chỉ là yêu cầu của xã hội mà
còn là mong muốn của các trường đại học ngoài công lập đang theo đuổi mục tiêu:
không chỉ có đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp, mà cần đổi mới và
quyền tự chủ thật sự về tài chính để vừa hoạt động hiệu quả, vừa không chạy
theo mục tiêu lợi nhuận như một doanh nghiệp thuần túy.
Luật Doanh nghiệp 2014 hiện hành lần đầu tiên quy định về
loại hình “doanh nghiệp xã hội”. Tuy nhiên, Luật Giáo dục đại học năm 2013 lại
không thừa nhận “mục tiêu lợi nhuận” của các trường đại học tư thục và đang
đựợc xem xét trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung. Hoạt động của các trường đại học
ngoài công lập đang đòi hỏi một khung pháp lý rõ ràng hơn về sở hữu vốn, cơ
chế pháp lý tạo nguồn vốn và phân chia lợi nhuận thích hợp hơn để các trường
đại học ngoài công lập thu hút nhiều hơn đầu tư tư nhân cho giáo dục và “chính
danh” cho hoạt động đầu tư vào lĩnh vực quốc sách hàng đầu này.
Đào tạo trung cấp trong trường đại học: “anh giành phần em”
Thời gian qua, nhiều trường đại học, cao đẳng được mở ra,
trong đó có trường được “nâng hạng” từ trung cấp lên cao đẳng, từ cao đẳng lên
đại học. Nhưng không ít trường khi đã lên cao đẳng, đại học rồi vẫn xin chỉ
tiêu được đào tạo trung cấp với nhiều lý do gọi là “chính đáng” như: tận dụng
cơ sở vật chất, trang thiết bị, đội ngũ giáo viên và đáp ứng nhu cầu người học.
Về mặt tâm lý, nhiều người cũng thích được học ở trong trường đại học hơn, cho
dù chỉ ngồi ở lớp trung cấp. Thực trạng này, mà nhiều người gọi là “anh giành
phần em”, vừa gây khó khăn về nguồn tuyển cho các trường trung cấp, vừa làm mất
cân đối nguồn nhân lực của vùng.
Trong khi ở nhiều quốc gia quy mô đào tạo bậc trung cấp
luôn chiếm tỷ lệ nhiều hơn đại học, cao đẳng thì ở nước ta lại có tình trạng
ngược lại. Cả nước trong tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ”, riêng vùng đồng
bằng sông Cửu Long càng đáng lo ngại hơn khi giáo dục - đào tạo đang có dạng
“hình chóp lật ngược”. Theo Báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội tại Hội nghị tổng kết 5 năm thực hiện Quyết định
1033/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, năm học 2014 - 2015, toàn vùng có 45.248
học viên trung cấp, giảm 18% so với năm học 2010 - 2011. Tuyển sinh đào tạo
trung cấp chuyên nghiệp gặp rất nhiều khó khăn do chưa có được những giải pháp
hữu hiệu làm chuyển biến, thay đổi căn bản nhận thức của xã hội về bằng cấp,
nghề nghiệp, nhằm thực hiện tốt, hiệu quả công tác hướng nghiệp, phân luồng học
sinh sau trung học cơ sở; nhiều tỉnh chưa triển khai thực hiện đầy đủ việc phân
cấp quản lý theo Nghị định 115/NĐ-CP của Chính phủ; việc rà soát, cho phép mở
ngành đào tạo ở một số địa phương chưa chú ý đến nhu cầu nhân lực, điều kiện
đảm bảo chất lượng và hạn chế về hiệu quả công tác kiểm tra chất lượng đào tạo
sau khi được mở ngành.
Sau hơn 5 năm thực hiện Quyết định 1033/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ, chỉ tiêu phát triển giáo dục chuyên nghiệp của vùng đồng bằng
sông Cửu Long không đạt, quy mô tuyển sinh giảm 18%; tỷ lệ huy động học sinh
tốt nghiệp trung học cơ sở vào học trung cấp chuyên nghiệp đạt khoảng 9%, thấp
hơn chỉ tiêu đặt ra là từ 10-15%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề của vùng
năm 2015 đạt 35,2%, tuy có tăng 23,5% so với năm 2010 nhưng còn thấp hơn nhiều
so với bình quân chung của cả nước (40,6%). Trong khi đó, theo thống kê năm học
2014 - 2015, quy mô sinh viên đại học, cao đẳng chính quy của vùng đồng bằng
sông Cửu Long là 130.896 sinh viên (trong đó đại học là 86.230 sinh viên và cao
đẳng là 44.666 sinh viên), tăng 9% so với năm học 2011 - 2012.
Đại học ngoài công lập: Chạy đua tuyển sinh và bất cập “đầu
vào - đầu ra”
Số lượng, chất lượng học sinh phổ thông là “nguồn đầu vào”
quan trọng của các trường đại học, cao đẳng. Tuy nhiên, theo Báo cáo của Bộ
Giáo dục và Đào tạo, đến cuối năm 2015, vùng đồng bằng sông Cửu Long vẫn là
vùng có tỉ lệ học sinh phổ thông bỏ học cao và tỉ lệ huy động học sinh trong độ
tuổi thấp so các vùng, miền và bình quân chung cả nước. Cụ thể, tỷ lệ học sinh
tiểu học bỏ học là 0,45% (cả nước 0,16%, Tây Bắc 0,1%, Tây Nguyên 0,3%); tỷ lệ
bỏ học trung học cơ sở là 3,26% (cả nước 1,37%, Tây Bắc 1,04%, Tây Nguyên
1,3%); tỷ lệ bỏ học trung học phổ thông là 3,94% (cả nước 1,79%, Tây Bắc 1,99%,
Tây Nguyên 1,32%). Tỷ lệ huy động học sinh trong độ tuổi đến trường ở cấp trung
học cơ sở đạt 84% (chỉ tiêu đặt ra 85%); trung học phổ thông đạt 48,5% (chỉ
tiêu đặt ra 60%).
Hằng năm, có hơn 2,8 triệu học sinh phổ thông và hàng trăm
ngàn sinh viên cao đẳng, đại học trong vùng đồng bằng sông Cửu Long bước vào
năm học mới. Khi còn áp dụng Quy chế tuyển sinh theo “điểm chuẩn, điểm sàn” thì
nhiều trường đại học ngoài công lập thuộc “tốp dưới” tuyển sinh khó khăn, có
trường không tổ chức thi tuyển, hồi hộp chờ đợi nhóm thí sinh “trên sàn, dưới
chuẩn” tiếp tục đăng ký để xét tuyển cho đủ chỉ tiêu. Trong khi đó, Quy chế
tuyển sinh cho phép các em được nộp hồ sơ ở nhiều trường, tạo ra một lượng “hồ
sơ ảo”, dẫn đến cuộc đua đến ngày nhập học ở các trường này càng khó khăn
hơn.
Không thể phủ nhận, thời gian gần đây, nhiều trường đại học
ngoài công lập rất năng động và có nhiều hoạt động tiếp cận trường học và học
sinh phổ thông. Tuy nhiên, do tình trạng khan hiếm nguồn tuyển sinh dẫn đến một
số trường có xu hướng xem nhẹ chất lượng nguồn tuyển là học sinh phổ thông.
Nhiều học sinh được mời chào, xét tuyển cho đủ chỉ tiêu và nhà trường cần có
người học hơn là đảm bảo chất lượng đầu vào đại học. Trong khi đó, chất lượng
đào tạo ở nhiều trường đại học ngoài công lập chưa đáp ứng yêu cầu, nhiều nơi
ngán ngại tuyển dụng người tốt nghiệp từ các trường này hay hệ đại học tại
chức, liên thông. Nhiều sinh viên tốt nghiệp không đáp ứng được nhu cầu sử dụng
của cơ quan, doanh nghiệp và địa phương. Nhiều trường thiếu gắn kết nhu cầu của
xã hội mà biểu hiện rõ nhất là chưa tiếp cận được chiến lược nguồn nhân lực của
vùng, của địa phương và thiếu thông tin thị trường lao động.
Hằng năm, các trường vẫn có tổ chức các đợt tư vấn tuyển
sinh, nhưng chủ yếu cung cấp thông tin đầu vào, còn việc tiếp thị, quảng bá
ngành học của các trường, cơ sở đào tạo chưa được quan tâm đúng mức. Một doanh
nghiệp sản xuất ra sản phẩm với chu kỳ vài tuần, vài tháng hay một năm đều dựa
trên kết quả khảo sát thị trường, nắm thị phần để cạnh tranh. Trong khi đó,
sinh viên đại học, cao đẳng là “sản phẩm đào tạo” chất lượng cao, mà “chu kỳ”
kéo dài từ 3-6 năm, không có lý do gì lại thiếu một chiến lược tương tự để đáp
ứng tốt nhu cầu xã hội tương xứng. Vấn đề rất đáng quan tâm hiện nay là nhiều
trường đại học, cao đẳng ở đồng bằng sông Cửu Long thiếu gắn kết sau đào tạo,
chưa nắm được có bao nhiều sinh viên đã ra trường đang làm gì, ở đâu để điều
chỉnh quy mô đào tạo, ngành học cho phù hợp. Nhiều trường, cơ sở đào tạo cũng
chưa quan tâm khảo sát thị trường lao động một cách nghiêm túc, chưa có chiến
lược quảng bá, tiếp thị một cách khoa học, thiết thực.
Một vài khuyến nghị
Tăng cường liên kết vùng đào tạo nhân lực đại học, cao đẳng
Từ xuất phát điểm thấp, nhiều khó khăn, thời gian qua,
nhiều tỉnh, thành trong vùng đồng bằng sông Cửu Long đã chủ động phối hợp với
các trường đại học, cơ sở đào tạo trong vùng, trong nước nhằm “tăng tốc” trong
cuộc “rượt đuổi” các vùng, miền khác về phát triển nhân lực. Bộ Giáo dục và Đào
tạo cũng đã ban hành chính sách ưu tiên học đại học cho con em đồng bào dân tộc
22 huyện nghèo vùng biên giới, hải đảo trong vùng đồng bằng sông Cửu Long (không
thuộc 62 huyện nghèo).
Tuy nhiên, nỗ lực liên kết vùng đồng bằng sông Cửu Long
trong giáo dục - đào tạo thời gian qua chỉ mới là hoạt động “kết nối”, “lấp
khoảng trống” do các quy định hành chính tạo ra. Bước đầu, những nỗ lực này
cũng đã có tác dụng thiết thực hỗ trợ đồng bằng sông Cửu Long nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực. Song, thực tế đang đòi hỏi cần phải lồng ghép và có các
chính sách căn cơ hơn để tạo ra chuyển biến tốt hơn từ nhiều chương trình, tạo
ra cuộc vận động lớn, thiết thực và hiệu quả hơn. Cùng với chiến lược nguồn
nhân lực quốc gia và các tỉnh, thành trong vùng, rất cần một sự liên kết chặt
chẽ để xây dựng chiến lược nguồn nhân lực cho cả vùng đồng bằng sông Cửu Long
trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Quy hoạch phát triển hệ thống các trường đại
học, cao đẳng, trường nghề, trường phổ thông phải dựa trên chiến lược này. Cần
“hướng cầu” là thị trường lao động, nhu cầu sử dụng nhân lực của doanh nghiệp,
cơ quan, đơn vị trong vùng, lấy đó làm động lực phát triển hơn là chủ yếu dựa
trên năng lực chuyên môn, cơ sở vật chất của các trường đại học, cao đẳng.
“Tái cấu trúc” các trường đại học, cao đẳng
Cùng với tái cấu trúc nền kinh tế, đầu tư công, doanh
nghiệp nhà nước và tái cấu trúc ngành ngân hàng, xử lý nợ xấu, thì cũng rất cần
“tái cấu trúc” mạng lưới trường đại học, cao đẳng để nâng cao chất lượng đào
tạo và “xử lý nợ xấu” ở đầu ra. Cần tăng cường kiểm định chất lượng độc lập,
đưa công tác đào tạo vào thực chất, phân biệt rõ giữa đại học nghề (thực hành)
và đại học lý thuyết như cách các nước Âu - Mỹ đang áp dụng.
Một lộ trình rõ ràng và điểm đến với thời gian biểu cụ thể
cho cơ chế tuyển chọn đầu vào đang được đặt ra và chờ đợi như một yêu cầu bức
bách phải “tái cấu trúc các trường đại học, cao đẳng”. Điều đó đang đặt ra một
yêu cầu cần có cuộc “tổng rà soát” để xác định lại phù hợp các chỉ tiêu, mục
tiêu giáo dục đại học và cao đẳng vùng đồng bằng sông Cửu Long theo hướng “quy
hoạch tích hợp, đa ngành” gắn với chiến lược nguồn nhân lực và định hướng phát
triển kinh tế - xã hội vùng trong tình hình mới, theo yêu cầu mới.
Đại học phải là nơi định hướng cho giáo dục phổ thông
Cần xây dựng một Chiến lược nhân lực cho vùng đồng bằng
sông Cửu Long. Trong đó, xác định mục tiêu rõ ràng, phù hợp và vai trò, vị trí
của giáo dục đại học, cao đẳng là phải định hướng cho những đổi mới của giáo
dục phổ thông để nâng cao chất lượng nguồn tuyển đầu vào đại học, cao đẳng,
không nên chỉ loay hoay đổi mới giáo dục phổ thông mà ít chú ý đến đại học, cao
đẳng. Chất lượng đào tạo đại học, cao đẳng là một định hướng quan trọng cho
giáo dục phổ thông, chứ không phải phổ thông áp đặt đại học, cao đẳng như hiện
nay. Không thể để các trường đại học “bị động” bằng cách căn cứ vào bảng điểm
phổ thông của học sinh để tuyển sinh đầu vào.
Phải có những quy định rõ ràng để các trường phổ thông,
ngoài giáo dục kiến thức phổ thông cho học sinh, còn có những định hướng rõ
ràng theo các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề. Và điều quan trọng là các
trường phổ thông phải giữ vai trò quan trọng cho việc “phân luồng” học sinh phổ
thông sau tốt nghiệp./.
Tài liệu tham khảo
Tài liệu tham khảo
1. Luật Giáo dục Đại học số 08/2012/QH13, Quốc hội nước Cộng
hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Luật Doanh nghiệp năm 2014, Quốc hội nước Cộng hòa Xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
3. Quyết định 1033/QĐ-TTg ngày 30-6-2011 của Thủ tướng Chính phủ Về phát triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề vùng ĐBSCL, giai đoạn 2011 - 2015, định hướng đến năm 2020.
4. Báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội sơ kết 5 năm thực hiện Quyết định số 1033/QĐ-TTg ngày 30-6-2011 của Thủ tướng Chính phủ về phát triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề các tỉnh vùng Đồng bằng Sông Cửu Long giai đoạn 2011 - 2015, phương hướng phát triển giai đoạn 2016 - 2020.
5. Các Báo cáo tổng kết năm của Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ giai đoạn 2011 - 2016.
3. Quyết định 1033/QĐ-TTg ngày 30-6-2011 của Thủ tướng Chính phủ Về phát triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề vùng ĐBSCL, giai đoạn 2011 - 2015, định hướng đến năm 2020.
4. Báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội sơ kết 5 năm thực hiện Quyết định số 1033/QĐ-TTg ngày 30-6-2011 của Thủ tướng Chính phủ về phát triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề các tỉnh vùng Đồng bằng Sông Cửu Long giai đoạn 2011 - 2015, phương hướng phát triển giai đoạn 2016 - 2020.
5. Các Báo cáo tổng kết năm của Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ giai đoạn 2011 - 2016.
Nhận xét
Đăng nhận xét