Chuyển đến nội dung chính

Đôi chân đồng bằng

TS TRẦN HỮU HIỆP
Tài nguyên đất và nước ví như đôi chân kiến tạo và phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Đôi chân đó đang đứng trước nhiều thách thức. Sạt lở vì “nước đói” và sụt lún như kẻ thù giấu mặt dưới đất là thách thức lớn cần được chính trị và thích ứng hiệu quả.

Nước đói

ĐBSCL đang mùa khô, nhưng sạt lở vẫn đang diễn ra dọc theo bờ sông, bờ biển cho thấy tính phức tạp, bất thường và ngày càng nghiêm trọng. Theo báo cáo của Bộ NN-PTNT, toàn vùng có 265 điểm sạt lở bờ sông nguy hiểm với tổng chiều dài hơn 450km, làm cuốn trôi khoảng 500ha đất mỗi năm. Tương tự, hơn một nửa chiều dài bờ biển ĐBSCL cũng đang bị sạt lở nghiêm trọng, làm mất khoảng 5 km2 đất ven biển mỗi năm.
18-25-40_st_lo_co_xu_the_ngy_cng_gi_tng
Tình trạng sạt lở, sụt lún nghiêm trọng ở ĐBSCL cần được giải quyết ngay từ các vấn đề nội tại của vùng
Nguyên nhân sạt lở được nhận diện từ những bất cập nội tại của vùng, sự phá vỡ các “túi trữ nước” tự nhiên như Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên; việc khai thác, sử dụng bất hợp lý nguồn tài nguyên nước cùng các tác động tiêu cực xuyên biên giới làm thay đổi sự ổn định theo quy luật tự nhiên ngàn đời nay của sông Mekong.
Trong cơn đói phù sa do các quốc gia đầu nguồn Mekong chặn dòng, xây đập thủy điện, hay chuyển nước trên dòng chính như kiểu “chích máu dòng sông” làm mất đa dạng sinh học, giảm lượng thủy sản, nghiêm trọng hơn là làm sụt giảm khoảng một nửa lượng phù sa sông Mekong vốn là nguồn trầm tích kiến tạo nên và nuôi sống đồng bằng.
Sông Tiền, sông Hậu và hệ thống sông ngòi chằng chịt của vùng ĐBSCL còn bị thêm “cú đấm hội đồng” của tội đồ “cát tặc”, do đê bao cục bộ “mạnh ai nấy làm”. Tình trạng sử dụng nước ngầm quá mức gây sụt lún đất và tạo ra các vết nứt bị khoét rỗng thành hố, từ đó bị tác động bởi thủy triều. Khi mất lượng phù sa, tài nguyên cát bị vơ vét cạn kiệt, các con sông bị bào mòn nghiêm trọng, làm thay đổi dòng chảy, lòng sông sâu hơn, tạo ra hiện tượng “nước đói”, xâm thực bờ sông. Thiếu lượng phù sa sông Mekong còn tạo ra hiện tượng “nước biển đói” ở các cửa sông vùng ĐBSCL và hệ quả tất yếu là các vụ sạt lở ở ĐBSCL ngày càng nghiêm trọng.
 

Kẻ giấu mặt dưới đất

Cùng với ngập lụt, hạn mặn và sạt lở diễn ra bất thường, nguy hiểm, thì sụt lún cũng đang gây tác hại ngày càng nghiêm trọng. Nó như "kẻ giấu mặt" làm biến dạng đồng bằng, rất cần được nhận diện để xử lý, ứng phó kịp thời.
Các chuyên gia trong nước và quốc tế đã đưa ra cảnh báo về nguy cơ sụt lún, mối đe dọa có tính sống còn với khu vực và người dân đồng bằng. Các nghiên cứu gần đây chỉ ra, việc khai thác nước ngầm thiếu kiểm soát là nguyên nhân chính gây sụt lún đất. Tốc độ sụt lún ở ĐBSCL ngày càng nghiêm trọng hơn, trung bình 1,1cm/năm, có nơi 2,5cm/năm, cao hơn 10 lần so với tốc độ nước biển dâng. Mực nước ngầm ở một số nơi đã bị hạ thấp hơn 5m.
18-25-40_st_lo_sut_lun_lu_di_co_the_gy_bien_dng_doi_voi_vung_dt_ny_nhung_dbscl_khong_phi_se_bien_mt_ngy_trong_vi_muoi_nm
Sạt lở, sụt lún lâu dài có thể gây biến dạng đối với vùng đất này, nhưng ĐBSCL không phải sẽ biến mất ngay trong vài mươi năm
Khi mà tình trạng sụt lún đã trở nên nghiêm trọng có thể gây biến đạng đồng bằng, cùng sạt lở diễn ra trên diện rộng làm mất cân bằng trên toàn hệ thống, tác động bất lợi đến “đôi chân phát triển của đồng bằng” là tài nguyên đất và nước, thì vấn đề rất cần được nhận diện hệ thống, tiếp cận theo hệ thống. Để phát triển bền vững vùng ĐBSCL, đòi hỏi phải xử lý các vấn đề sụt lún, sạt lở trước mắt như là tình huống thiên tai khẩn cấp, nhưng quan trọng hơn vẫn là chiến lược ứng phó dài hạn, sự tiếp cận đa ngành và tăng cường phối hợp giải quyết liên ngành.
Sạt lở, sụt lún lâu dài có thể gây biến dạng đối với vùng đất này, nhưng ĐBSCL không phải sẽ biến mất ngay trong vài mươi năm. Đó là một quá trình đòi hỏi sự thích ứng chủ động và khôn ngoan. Hành động thích ứng có thể đúng, có thể sai trong một tương lai bất định, nhưng cần dựa trên "nguyên tắc không hối tiếc". Nếu hành động sai thì vừa tốn kém, không hiệu quả mà cái giá phải trả cho sai lầm sẽ rất đắt.
 

Hành động của chúng ta

Nghị quyết 120/NQ-CP ngày 17/11/2017 của Chính phủ về “Phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu” đã xác định tầm nhìn dài hạn, yêu cầu thay đổi tư duy, kiến tạo phát triển bền vững, thịnh vượng, chuyển hóa những thách thức thành cơ hội để phát triển vùng, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc, bảo đảm cuộc sống khá giả của người dân ĐBSCL. Đó là tư duy đột phá, thích ứng thuận theo tự nhiên và quy hoạch không gian tích hợp.
Mới đây, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã ban hành Quyết định 417/QĐ-TTg ngày 13/4/2019 kèm theo Chương trình hành động tổng thể thực hiện Nghị quyết 120/NQ-CP. Theo đó, xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ương và địa phương là ưu tiên giải quyết vấn đề sạt lở bờ biển, bờ sông, rạch và sụt lún đất trong vùng; triển khai quy hoạch, thiết kế các dự án cần đầu tư quy mô lớn ở giai đoạn tiếp theo nhằm triển khai các mô hình kinh tế - xã hội của vùng một cách bền vững và chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu.
Theo đó, cần một chiến lược tổng thể "cân bằng nước", nâng cao hiệu quả khai thác, quản lý, sử dụng tài nguyên nước theo hướng giảm tối đa việc khai thác nước ngầm. Thay đổi phương thức sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và tiêu dùng nước theo hướng phát triển nền công nghiệp xanh, nông nghiệp sạch, giảm thâm canh, giảm đầu vào, tăng giá trị và chất lượng đầu ra các chuỗi giá trị nông sản.
Những giải pháp công trình mang tính kỹ thuật, công nghệ để ứng phó trước tác động của BĐKH, sụt lún, hạn mặn là cần thiết. Nhưng quan trọng hơn vẫn là chất lượng quy hoạch, đầu tư xây dựng hệ thống thủy lợi, bố trí dân cư, tổ chức sản xuất đặt trong bối cảnh tổng thể, tính đến những mục tiêu ứng phó dài hạn, nhưng cũng không quên những mục tiêu trước mắt là người dân phải sống, con em phải đi học, tạo sinh kế cho người dân trong an toàn.
18-25-40_thieu_luong_phu_s_song_mekong_con_to_r_hien_tuong_nuoc_bien_doi
Tình trạng sạt lở, sụt lún nghiêm trọng ở ĐBSCL cần được giải quyết ngay từ các vấn đề nội tại của vùng
Tình trạng sạt lở, sụt lún nghiêm trọng ở ĐBSCL cần được giải quyết ngay từ các vấn đề nội tại của vùng, nhưng cũng rất cần được trợ lực bằng các định chế quốc tế như nâng cao vai trò thực chất và hiệu quả hoạt động của Ủy hội sông Mekong, kèm theo các giải pháp tăng cường ngoại giao, hợp tác song phương và đa phương để giảm thiểu các tác động tiêu cực liên quan đến tài nguyên nước sông Mekong.
Cùng với việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của Chương trình hành động tổng thể của Chính phủ, rất cần có thêm nhiều nghiên cứu khoa học, các luận cứ khoa học và thực tiễn để chỉnh trị và ứng pho hiệu quả hai mối nguy từ sạt lở và sụt lún.
Tư duy quy hoạch tích hợp mang tính không gian vùng, tiểu vùng và liên kết đòi hỏi phải thực thi mệnh lệnh liên kết vùng. Mạnh ai nấy làm như mọi khi, địa phương nào biết địa phương đó, ngành nào biết ngành đó không còn phù hợp sẽ làm cho tình trạng “nước đói” gây sạt lở, những kẻ thù giấu mặt sụt lún dưới đất ngày càng hung bạo hơn. Chỉ có cách tiếp cận theo vùng, liên vùng, phối hợp liên ngành cùng hành động mới mong thích ứng trước các biến đổi tự nhiên và xã hội “giúp đôi chân đồng bằng” vững bước hơn trên đường phát triển.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã ký Quyết định 417/QĐ-TTg ban hành Chương trình hành động tổng thể thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ.
Chương trình hành động tổng thể đề ra 6 nhóm nhiệm vụ và giải pháp cụ thể chính, bao gồm: (1)- Rà soát, hoàn thiện và bổ sung hệ thống cơ chế, chính sách; (2)- Cập nhật và hệ thống hóa số liệu, dữ liệu liên ngành, tăng cường điều tra cơ bản; (3)- Xây dựng quy hoạch và tổ chức không gian lãnh thổ; (4)- Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý thích ứng với biến đổi khí hậu; 5- Đầu tư và phát triển hạ tầng; (6) - Phát triển và huy động nguồn lực.
Kèm theo Chương trình hành động tổng thể gồm 44 chương trình, đề án, dự án cụ thể giao các Bộ, ngành Trung ương và địa phương triển khai thực hiện từ nay đến năm 2030.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

"Tính cách người Việt theo vùng miền"

Thảo luận về "Văn hoá & tính cách con người Việt theo vùng miền" trên  Trái tim Việt Nam online . Người bắc thường ăn nói nhẹ nhàng, kín đáo, thường hay suy nghĩ sâu xa. Người miền trung thì mọc mạc, chất phác lại hay có tính cục bộ. Người miền nam thì phóng khoáng cởi mở, dễ gần.Dân miền Bắc thường thể hiện mình qua lời nói, trong bất cứ tình huống nào họ cũng đều phải nói cho được. Dân miền Trung thường thể hiện mình qua thái độ, cử chỉ, còn miền Nam thì thể hiện qua phong cách. Nói chung dân Bắc-Trung-Nam đều diễn tuồng cả, cho nên lời nói lúc thì nhẹ nhàng điềm đạm, lúc lại gắt gỏng chua ngoa, thái độ có lúc thì đằm thắm, khi thì thì lại khinh bạc, phong cách thì có lúc phóng khoáng lúc lại dè dặt... Ấn tượng bên ngoài là như thế nhưng có khi bạn cũng thấy là chẳng ai tranh cãi lý luận lại người Trung, thái độ cử chỉ của dân Bắc cũng có thể khiến bạn dè chừng, và lời nói hay thái độ của dân Nam cũng khiến bạn chạy dài... Muốn kiểm chứng thì bạn cứ bỏ ra

ART NUDE PHOTOS của Dương Quốc Định

Quên những bộn bề lo toan giá vàng lên xuống, giá lúa, cá tra giảm, chuyện nhà khoa học phải nói dối ... để  ngắm ảnh các em xinh đẹp. Và nếu như kết quả nghiên cứu khoa học của một bà đầm Đức  là khoa học  (không như ta nói dối nhiều quá):  DÒM VÚ PHỤ NỮ TĂNG TUỔI THỌ     (Blog này đã từng có bài, nằm trong nhóm truy cập nhiều nhứt, có lẽ nhiều người đã luyện tập?) thì quý ông cũng nên tập thể dục con mắt một tí nhé. Xin mượn mấy tấm ảnh của nhà nhiếp ảnh Dương Quốc Định làm  dụng cụ luyện tập, ai có điều kiện thì xài hàng thật. Bộ sưu tập những bức ảnh khỏa thân và bán khỏa thân nghệ thuật của nhiếp ảnh gia trẻ Dương Quốc Định. Rất nhiều ảnh trong bộ sưu tập này đã đoạt những giải thưởng quốc tế uy tín. Cảm ơn tác giả đã chia sẻ tác phẩm trên internet. Mời bạn xem qua phần thể hiện bộ sưu tập trên PPS của chúng tôi. Link PPS:  http://vn.360plus.yahoo.com/nns-nguyennamson/article?new=1&mid=112 Chân dung Dương Quốc Định Dương Quốc Định  sinh năm 1967,

Nhớ Cần Thơ phố

Trần Hữu Hiệp B áo Dân Việt So với Thăng Long - Hà Nội ngàn năm văn hiến, cố đô Huế trầm tư hay Sài Gòn phố nhộn nhịp, thì Cần Thơ phố mang đậm đặc trưng sông nước miệt vườn. Nơi đó, hàng ngày, người Tây Đô vẫn đang sống cuộc đời bình dị. Nhớ thời học phổ thông, nhà tôi chỉ cách trung tâm Cần Thơ 20 Km, nhưng mãi đến năm 15 tuổi, lần đầu tiên mới được đến Cần Thơ cùng đội học sinh giỏi của Trường cấp III Ô Môn dự thi. Đêm, mấy thằng nhà quê lang thang, lạc đường trên phố Hòa Bình, thời đó là một  đại lộ mênh mông trong mắt nhìn bọn trẻ nhà quê chúng tôi. Ký ức Cần Thơ phố trong tôi một thời còn vang qua giọng ngâm của ai trong đêm tĩnh lặng nơi con hẻm nhỏ, bài thơ Tình trắng của Kiên Giang – Hà Huy Hà: “Cần Thơ, ơi hỡi Cần Thơ/Bóng dáng ngày xanh phủ bụi mờ/Ai nhặt giùm tôi bao kỷ niệm” … Và thơ tôi, tuổi học trò: “Ai đặt tên em tự bao giờ/Người đời hai tiếng gọi Cần Thơ/Mỗi lúc đi xa ta nhớ quá/Gặp lại hình em trong giấc mơ …”.   Nhớ Cần Thơ phố thời bao