(TBKTSG)
- Giá nguyên liệu nhập khẩu giảm mạnh, thuế giá trị gia tăng (GTGT) ở khâu
nhập khẩu, cước vận tải cũng đang “hạ nhiệt” là những điều kiện thuận lợi
để giảm giá bán thức ăn chăn nuôi thành phẩm. Song, các đơn vị kinh doanh
vẫn cố tình giữ giá.
Có
điều kiện vẫn muốn neo giá
Từ đầu năm đến
nay, ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi nội địa có nhiều thuận lợi để giảm
giá bán sản phẩm. Thứ nhất, giá bắp nhập khẩu đã sụt giảm rất mạnh so với
cùng kỳ.
Theo Hiệp hội
Thức ăn chăn nuôi Việt Nam, bình quân giá bắp nhập khẩu trong tháng 1-2014
là 6.500 đồng/ki lô gam, thì đến hết tháng 11-2014 giảm xuống còn 6.300
đồng/ki lô gam. Tương tự, giá khô dầu đậu nành nhập khẩu trong tháng 1-2014
là 14.490 đồng/ki lô gam, thì đến tháng 11 giảm xuống còn 12.600 đồng/ki lô
gam và giá mì cũng từ mức 5.250 đồng/ki lô gam, giảm xuống còn 5.040
đồng/ki lô gam.
Thứ hai, các sản
phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến
thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường của tổ chức, cá
nhân nhập khẩu dùng làm thức ăn chăn nuôi (kể cả nhập khẩu về để sản xuất
thức ăn chăn nuôi) thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT ở khâu nhập khẩu.
Trong trường hợp các doanh nghiệp đã nộp thuế GTGT khi nhập khẩu sẽ được kê
khai, khấu trừ thuế GTGT đầu vào khi sản phẩm được bán ra.
Thứ ba, xăng dầu
được điều chỉnh giảm giá mạnh nhờ đó chi phí vận chuyển cũng giảm theo.
Vậy mà từ đầu năm
đến nay, giá bán loại thức ăn chăn nuôi vẫn không giảm, chẳng hạn loại thức
ăn chăn nuôi chuyên dùng cho heo nái nuôi con hiệu Maxi’ Mum, 25 ki lô
gam/bao có giá 190.000 đồng/bao hay sản phẩm Boss - 112 (dành cho heo thịt
từ 30-60 ki lô gam) cũng có giá ổn định ở mức 285.000 đồng/bao 25 ki lô
gam.
Lỗ
hổng quản lý!
Lý giải nguyên
nhân chưa giảm giá bán sản phẩm, một doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh thức
ăn chăn nuôi, cho rằng do nguyên liệu đã được họ mua từ trước - khi giá
nhập khẩu ở mức cao - cho nên muốn giảm giá bán cũng cần phải có độ trễ,
“chứ đâu phải cái này, cái kia giảm là chúng tôi giảm được ngay đâu!”, vị
này cho biết.
Tuy nhiên, ở góc độ cá nhân, ông Trần Hữu Hiệp, Vụ trưởng Vụ Kinh tế, Ban chỉ
đạo Tây Nam bộ, cho rằng chính cơ chế quản lý, điều hành của Nhà nước còn
nhiều “lỗ hổng” nên doanh nghiệp thường dựa vào đó để bảo vệ lợi ích, không
chịu chia sẻ với người nông dân.
Cụ
thể, theo ông Hiệp, với việc điều hành giá thức ăn chăn nuôi hiện nay, hiện
có quy định về mức trần tăng giá, nhưng lại “quên” quy định về nghĩa vụ
phải giảm giá.
Do đó,
đứng ở góc độ vĩ mô, cần phải xem xét, rà soát lại hai mặt. Thứ nhất khi đã
chấp nhận ngành này hoạt động theo cơ chế thị trường, thì cần bổ sung thêm
những quy định chặt chẽ hơn, mà cụ thể ở đây là cơ chế bắt buộc doanh
nghiệp phải có trách nhiệm hạ giá bán theo biến động của thị trường.
Thứ
hai, ở một số ngành, chẳng hạn ngành sản xuất cá tra (ngành phụ thuộc rất
lớn vào thức ăn thủy sản, chiếm 70% giá thành sản xuất - NV), Chính phủ có
quy định đây là ngành sản xuất có điều kiện. Thế nhưng, nếu chỉ quản lý
ngành cá tra mà “quên” quản lý ngành chế biến thức ăn, rõ ràng nó sẽ tạo ra
một khoảng trống vì quản lý thì phải quản lý đồng bộ toàn chuỗi. “Theo tôi,
sắp tới các nhà nghiên cứu, nhà quản lý phải tính toán lại việc này như thế
nào cho đồng bộ, như vậy mới phát triển toàn diện được”, ông Hiệp đề xuất.
Còn ông Nguyễn
Trí Công, Chủ tịch Hiệp hội Chăn nuôi Đồng Nai, cho rằng ngoài việc phải
hoàn thiện các chính sách, văn bản pháp luật, nhất là những quy định bắt
buộc doanh nghiệp phải hoạt động đúng cơ chế thị trường - tức có tăng có
giảm theo biến động của giá cả đầu vào - thì cần kiểm tra việc thực hiện
của các doanh nghiệp, đơn vị kinh doanh mặt hàng này để tạo sự công bằng
giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng. “Ví dụ, khi đơn vị sản xuất có quyết
định điều chỉnh giảm giá bán, nhưng về tới đại lý kinh doanh, họ cố tình
không thực hiện, thì người sử dụng cũng rất khó biết được vì nông dân
thường có rất ít thông tin về những diễn biến giá cả”, ông Công cho biết.
|
Nhận xét
Đăng nhận xét