Liên kết, lồng ghép là một trong những giải pháp có tầm nhìn dài hạn giúp
Đồng bằng sông Cửu Long phát triển an toàn, trù phú và bền vững trước tác động
xấu của thiên tai.
Lường trước và hóa giải
những khó khăn sẽ giúp vùng đất này lấy lại thế “thiên thời – địa lợi”.
* Lồng ghép phát triển
Theo Phó giáo sư, Tiến sĩ
Lê Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu biến đổi khí hậu – Trường Đại học
Cần Thơ, hạn hán năm 2016 không còn mang ý nghĩa là năm hạn về mặt khí tượng
nữa.
Năm nay lượng nước cung
cấp thấp hơn trung bình nhiều năm đã thể hiện rõ cái “hạn” về nông nghiệp. Khô
hạn làm giảm năng suất và sản lượng cây trồng diễn ra phổ biến.
Ngoài ra, còn nhiều biểu
hiện mang dấu ấn của “năm hạn” như: thiếu nước sinh hoạt ở mức báo động gây
ngưng trệ nhiều nguồn sản xuất, sinh kế; nhiều thảm họa thiên tai phải huy động
các nguồn lực cứu trợ khẩn cấp.
Trước tình hình hạn mặn năm
nay, lo ngại về việc các vùng canh tác lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị thu
hẹp, năng suất và sản lượng sụt giảm đáng kể đã dần hiện hữu.
Tuy nhiên, với nhiều nỗ
lực, bước đầu các nhà khoa học nông nghiệp đã lai tạo ra những giống lúa mới có
khả năng thích nghi tốt hơn với nước mặn. Nhiều giống lúa có khả năng kháng mặn
cao đang được thử nghiệm tại nhiều vùng đất nhiễm mặn khác nhau.
Nhận thức sớm các nguy cơ
tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng
lên là việc làm cấp bách để có những chính sách nhằm ứng phó; bao gồm cả giảm
thiểu và thích ứng với tình trạng nóng lên toàn cầu ảnh hưởng đến Việt Nam ,
đặc biệt là vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Đây thực sự là mối đe dọa lớn cho an
ninh lương thực và sinh kế của người dân khu vực này.
Theo đó, tại khu vực này
cần đánh giá mức độ tác động của biến đổi khí hậu đối với các lĩnh vực, ngành
và địa phương trong từng giai đoạn; xây dựng được kế hoạch hành động có tính
khả thi để ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu.
Việc lồng ghép hay gắn
kết, tích hợp các biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu có ý nghĩa lớn nhằm
đảm bảo tính phát triển bền vững trong việc hoạch định và thực thi kế hoạch.
Việc lồng ghép biến đổi
khí hậu phải được thực hiện qua sự phối hợp đa ngành, đa lĩnh vực và có sự tham
gia của cộng đồng và các tổ chức, ban ngành liên quan, kể cả việc rà soát các
thể chế, chính sách hiện tại có phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội dưới
điều kiện có biến đổi khí hậu trong tương lai hay không.
* Liên kết phát triển
* Liên kết phát triển
Theo ông Trần Hữu Hiệp, Vụ trưởng Vụ Kinh tế - Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ, yêu
cầu cấp thiết với ngành nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Cửu Long là phải tăng
cường liên kết để đưa ra những cơ chế, chính sách nhằm đảm bảo an ninh lương
thực quốc gia.
Tạo được liên kết vùng vững chắc sẽ nâng cao hiệu quả đầu tư, tránh tình
trạng đầu tư dàn trải, lãng phí nhất là trong tình hình cấp bách như hiện nay.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ
Nguyễn Văn Sánh, Viện Nghiên cứu phát triển Đồng bằng sông Cửu Long cho rằng,
sự phát triển thành công của khu vực này trong thời gian qua là nhờ yếu tố quan
trọng là nguồn nước ngọt phù sa màu mỡ của sông Mê Kông chạy qua với trung bình
khoảng 120 triệu tấn phù sa.
Tuy nhiên, việc ngăn đập,
kiểm soát lũ chặt chẽ đã làm mất đi bồi đắp phù sa tự nhiên. Diện tích vùng
ngập lũ bị thu hẹp, cùng đó là sạt lở bờ sông ngày một tăng.
Đặc biệt, phát triển sản
xuất và thâm canh nông nghiệp trong mùa khô đã gây ra bất cập quản lý nước ngọt
và nước mặn nơi đây. Cùng đó, việc sử dụng quá mức nước ngầm cũng làm trầm
trọng hơn về xâm nhập mặn, sinh kế người dân sống ven biển ngày càng bị tổn
thương.
Xâm nhập mặn, hạn hán, lũ
lụt, mất đất nông nghiệp, giảm khả năng sản xuất nông nghiệp và thủy sản, ảnh
hưởng sinh kế người dân nông thôn diễn ra ngày càng khốc liệt. Điều này đe dọa
an ninh lương thực quốc gia và tiềm năng sản xuất, tiêu thụ nông, lâm, thủy sản
của vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong tương lai không xa.
Do đó, các cấp cần có sự
quan tâm hơn trong đầu tư cơ sở hạ tầng nói chung và sản phẩm nông nghiệp nói
riêng trên ba cấp độ, nhằm góp phần tăng cơ hội sinh kế cho người dân, giúp sử
dụng tài nguyên hợp lý trước tác động biến đổi khí hậu cũng như thời tiết cực
đoan và tái cơ cấu nông nghiệp vùng trong giai đoạn ngắn hoặc trung hạn.
Ở cấp độ 1, đầu tư về giải
pháp sinh học là tạo giống cây con thích ứng thời tiết cực đoan, có thị trường
tiêu thụ. Ở cấp độ 2, cần thực hiện sâu rộng hệ thống canh tác theo vùng sinh
thái gắn chuỗi giá trị ngành hàng. Cấp độ 3 chính là đẩy nhanh đầu tư, phát
triển cơ sở hạ tầng thích ứng biến đổi khí hậu, thiên tai diễn ra trên địa bàn.
Theo Giáo sư, Tiến sĩ Tăng
Đức Thắng, Phó giám đốc Viện khoa học thủy lợi Việt Nam, để giải quyết vấn đề
hạn hán, xâm nhập mặn trước mặt, các địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long phải chủ động tạo nguồn nước
ngọt, đặc biệt là các vùng khan hiếm nước.
Các địa phương cần cấp
bách xây dựng hồ chứa, ao chứa, đập tạm trên kênh mương để tích trữ nước ngọt
bất cứ lúc nào; làm các đập tạm tích nước mưa, nước kênh rạch ngay trong mùa
mặn ở vùng ven biển khi độ mặn giảm thấp, nước ngọt xuất hiện.
Phó Trưởng ban thường trực
Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, ông Nguyễn Phong Quang cho rằng, những nơi nước mặn
trực tiếp xâm nhập cần giải quyết vấn đề nước ngọt phục vụ sản xuất và sinh
hoạt cho người dân.
Về lâu dài, Chính phủ Việt
Nam cần làm việc với chính phủ các nước có chung dòng Mê Kông về việc ngăn đập
làm ảnh hưởng nước ở hạ lưu – ông Quang kiến nghị.
Cùng với đó, đối với khu
vực Đồng bằng sông Cửu Long, các bộ, ngành liên quan cần xem xét nên ngăn đê
bao có trọng điểm để phục vụ sản xuất khép kín cho từng khu vực; tránh làm đê
bao tràn lan như thời gian qua./.
Nhận xét
Đăng nhận xét