Tác giả: Nguyễn Thị Hậu
Published: 25 Tháng
Chín 2017
Người Sài Gòn xưa có cách xưng hô thứ bậc thú vị: công chức, người có
học là thầy Hai, người Hoa buôn bán là chú Ba, đại ca giang hồ là anh Tư, lưu
manh là anh Năm… người lao động nghèo xếp thứ Tám. Sao lại xưng hô vậy?
Chiều muộn hôm qua có cậu bạn đi công việc ghé ngang nhà rủ làm ly cà
phê tán dóc. Nói chuyện lan man một hồi, tự nhiên anh chàng kể công ty em có
ông già gác cửa rất hay nói câu “bỏ qua đi Tám”…
“Em không hiểu, có lần hỏi thì ổng nói đại khái là dùng khi can ngăn
ai bỏ qua chuyện gì đó, nhưng sao không phải là Sáu hay Chín mà lại là Tám thì ổng
cũng không biết”, cậu bạn thắc mắc.
Dựa vào những câu chuyện xưa cũ, những giai thoại, nên kể ra đây chút
nguyên cớ của câu thành ngữ có lẽ sắp “thất truyền” này…
Trước hết, phải biết là câu này phát sinh ở khu vực Sài Gòn – Chợ Lớn
từ thời Pháp thuộc, khoảng đầu thế kỷ 20. Thời đó, cách xưng hô thứ bậc trong
xã hội rất phổ biến và phần nào phản ánh vị trí xã hội, giai cấp… một cách khá
suồng sã và dễ chấp nhận.
Thứ Nhất: Đứng trên hết là các “Quan Lớn” người Pháp hoặc các quan triều
nhà Nguyễn, thành phần này thì không “được” xếp thứ bậc vì giới bình dân hầu
như không có cơ hội tiếp xúc đặng xưng hô hay bàn luận thường xuyên.
Thứ Hai: Kế đến là các công chức làm việc cho chính quyền, họ ít nhiều
là dân có học và dân thường hay có dịp tiếp xúc ngoài đời, là cầu nối giữa họ với
các thủ tục với chính quyền, hoặc đó là thành phần trí thức, đó là các “thầy
Hai thông ngôn”, hay “thầy Hai thơ ký”…
Thứ Ba: Là các thương gia Hoa Kiều, với tiềm lực tài chính hùng hậu và
truyền thống “bang hội” tương trợ, liên kết chặt chẽ trong kinh doanh, các “chú
Ba Tàu” nghiễm nhiên là thế lực đáng vị nể trong mắt xã hội bình dân Sài Gòn –
Chợ Lớn thời đó.
Thứ Tư: Là các “đại ca” giang hồ, những tay chuyên sống bằng nghề đâm
chém và hành xử theo luật riêng, tuy tàn khốc và “vô thiên vô pháp” nhưng khá
“tôn ti trật tự (riêng)” và “có đạo nghĩa” chứ không tạp nhạp và thiếu nghĩa
khí như các băng nhóm “trẻ trâu” hiện đại. Các “anh Tư dao búa” vừa là hung thần,
vừa ít nhiều lấy được sự ngưỡng mộ của giới bình dân (và cũng không ít tiểu thư
khuê các) thời đó.
Thứ Năm: Là vị trí của giới lưu manh hạ cấp hơn: các anh Năm đá cá lăn
dưa, móc túi giật giỏ, hay làm cò mồi mại dâm…
Thứ Sáu: Bị giới bình dân ghét hơn đám lưu manh côn đồ là các “thầy
Sáu phú-lít (police)”, “thầy Sáu mã tà”, “thầy Sáu lèo”. Chức trách là giữ an
ninh trật tự, chuyên thổi còi đánh đuổi giới buôn gánh bán bưng bình dân, nhưng
các “thầy Sáu” này cũng không từ cơ hội vơ vét ít tiền mọn “hối lộ” của họ để
“nhẩm xà” (uống trà).
Thứ Bảy: Và trong giới buôn bán thì không thể thiếu chuyện vay vốn làm
ăn, mặc dù Tàu hay Việt cũng đều có tổ chức cho vay. Nhưng phổ biến và “quy củ”
nhất ở cấp độ trung – cao khu vực Sài Gòn – Chợ Lớn thời đó là các “anh Bảy Chà
và”, các anh này là các nhà tài phiệt người Ấn, vừa giàu vừa ít bị “ghét”, vừa
ít nhiều có quan hệ qua lại với giới chức người Pháp, lại làm ăn đúng luật lệ,
ít thừa cơ bắt chẹt lãi suất nên khá được giới kinh doanh tín nhiệm.
Thứ Tám: Xếp thứ Tám chính là lực lượng đông đảo nhất xã hội bình dân
bấy giờ: họ là giới lao động nghèo chỉ có sức lực làm vốn nuôi miệng, từ bốc
vác, gánh nước bồng em, đến “sang” hơn chút xíu là phu xe kéo…
Tuy đông nhưng lại yếu thế nhất vì thất học, không có tiền như thầy
Hai, anh Ba, cũng hiền lành chứ không bặm trợn phản kháng bạt mạng như các anh
Tư anh Năm nên họ thường xuyên chịu sự áp bức, bắt nạt từ mọi phía. Cách để yên
thân khả dĩ nhất với họ là khuyên nhau cắn răng nhẫn nhịn, quên đi để sống: “Bỏ
qua đi Tám”, bây giờ chắc là đã dễ hiểu rồi.
Thứ Chín: Không còn liên quan nữa, nhưng nhân tiện sẵn nói luôn về thứ
bậc chót cùng trong xã hội thời đó: các cô, các chị Chín xóm Bình Khang chuyên
“kinh doanh” bằng “vốn tự có”.
Dài dòng tí để trình bày chút kiến giải về một câu thành ngữ đang dần
bị quên lãng dùng để bày tỏ thái độ khuyên người hoặc tự an ủi mình hãy đừng để
ý những chuyện không vui, hay bị ai đó “chơi không đẹp”. Nếu lỡ đọc thấy không
có gì thú vị thì thôi, “bỏ qua đi Tám”.
“Anh Hai Sài Gòn” thì là cách gọi vui, thân mật, nhưng cũng thể hiện
tính cách phóng khoáng, dám làm dám chịu của dân Sài Gòn nói riêng và miền Nam
nói chung. Vì sao lại là “Anh Hai” chứ không là “Anh Cả”?
Năm 1558, Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa, bắt đầu gây dựng chính
quyền Chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Đây là cái mốc quan trọng của quá trình “Nam tiến”
trong lịch sử Việt Nam, cũng là quá trình hình thành văn hóa vùng đất phía Nam
trong xu thế mang theo và gìn giữ văn hóa cội nguồn, đồng thời tiếp nhận những
yếu tố văn hóa của cư dân vùng đất mới.
Đến năm 1698, Phủ Gia Định được thành lập, Sài Gòn – Gia Định hình
thành từ đó. Chỉ hơn 300 năm nhưng người Sài Gòn đã kịp định hình một bản sắc
riêng dễ nhận biết giữa những người của vùng miền khác. Điều này hình thành từ
nguồn gốc lưu dân và hoàn cảnh lịch sử xã hội của miền Nam /Sài Gòn.
Lưu dân người Việt vào Nam trước hết và đông nhất là những người “Tha
phương cầu thực” vì không có đất đai, không có phương kế sinh sống ở quê hương.
Thành phần thứ hai là những người chống đối triều đình, quan lại địa phương bị
truy bức nên phải tìm đường trốn tránh. Thứ ba là những tội đồ bị buộc phải ly
hương (một hình phạt nặng của thời phong kiến). Ngoài ra, còn có số ít người
tương đối giàu có, muốn mở rộng và phát triển việc làm ăn trên vùng đất mới nên
nhập vào hàng ngũ lưu dân tới miền Nam…
Khi Sài Gòn được hình thành như một trung tâm của vùng đất phía Nam thời
chúa Nguyễn, một đô thị lớn thời thuộc Pháp thì nơi đây cũng là nơi dân tứ xứ
tiếp tục đổ về. Người nhập cư là thành phần hữu cơ của bất cứ đô thị nào, Sài
Gòn vốn hình thành từ những lớp “người nhập cư” rồi trở thành “người Sài Gòn”,
rồi lại tiếp tục thu nhận và chia sẻ cho những lớp người nhập cư mới.
Sống trong những điều kiện lịch sử luôn biến động, người dân miền Nam
/Sài Gòn đã tạo dựng một nếp sống tinh thần ấm áp, bình đẳng, lấy tình nghĩa,
nghĩa khí làm trọng…
Người Sài Gòn không phân biệt “quê”, “tỉnh”, “đồng hương” hay không…
Có thể nói, tính cách người Sài Gòn bắt nguồn từ yếu tố, điều kiện thực
tế nhất ở Sài Gòn là “Làm”: “Làm ăn”, “Làm chơi ăn thiệt”, “Làm đại”, “Dám làm
dám chịu”… được thể hiện một cách giản dị, thiết thực, “liều lĩnh” nhưng cũng đầy
trách nhiệm
Ở Sài Gòn, “dư luận xã hội” không nặng nề khe khắt với những cái
khác, cái mới. Người Nam khá dân chủ trong các mối quan hệ xã hội và
cả trong gia đình, từ cách xưng hô (người Nam thường xưng “tui”) đến việc cá
nhân ít lệ thuộc, phụ thuộc vào cộng đồng.
Chỉ vậy thôi, bất kể người tỉnh nào vùng miền nào, miễn là sống ở Sài Gòn, rồi có tính cách như
vậy, thì đó là Người Sài Gòn… Có lẽ vì vậy mà người ta thường gọi người Sài Gòn
một cách trìu mến là “Anh Hai Sài Gòn”.
Ở miền Bắc con trai trưởng trong nhà gọi là Anh Cả nhưng miền Nam lại
gọi Anh Hai. Vì sao là Anh Hai mà không phải là Anh Cả? Có thể từ vài giả thuyết
sau: Chúa Nguyễn Hoàng là người con trai thứ hai của Nguyễn Kim, mở đường vào
Nam khai phá nên để tôn trọng ông, người dân gọi người con lớn của mình, trai
hay gái, cũng chỉ là (thứ) Hai.
Hoặc, có ý kiến cho rằng, khi có phong trào lưu dân vào Nam khai khẩn,
trong gia đình thường để con trai thứ ra đi vì người con trai trưởng có vai trò
ở lại quê nhà phụng dưỡng cha mẹ và thờ cúng tổ tiên. Cũng có người cho rằng,
trong làng quê miền Nam xưa có ông Cả (Hương Cả) là người đứng đầu, vì vậy
trong các gia đình chỉ có người thứ Hai…
Tuy khác nhau về nguồn gốc “thứ Hai” của “anh Hai Sài Gòn” hay “anh
Hai Nam Kỳ” nhưng có thể nhận thấy có chung một điểm: Đó là người con thứ không
bị ràng buộc trách nhiệm nặng nề “giữ hương hỏa, nền nếp” như người con trưởng
nên có thể “rộng chân” ra đi, tự do hơn khi tiếp nhận cái mới, thay đổi cái cũ
lạc hậu, dễ thích nghi, có khi thử, liều. Nhưng vì không có gia đình họ hàng
bên cạnh để mà dựa dẫm “tại, vì, bởi…” nên phải có trách nhiệm “dám chịu” nếu lỡ
sai lầm.
Nhận xét
Đăng nhận xét