Phát triển kinh tế vùng
là nhằm thúc đẩy và bảo đảm sự phát triển cân đối, bền vững của đất nước, có
tính đến các yếu tố đặc thù và cơ hội của toàn lãnh thổ và của các vùng, giảm
bớt những khác biệt giữa các vùng, không phải bằng cào bằng, kìm hãm nhau, mà
bằng bảo tồn và phát huy những đặc tính riêng về môi trường tự nhiên, văn hóa
và tiềm năng phát triển của các vùng.
Những trở ngại để đi tới liên kết vùng đã được nhận diện trên những nét cơ bản. Nhất quyết chúng ta phải vượt qua chúng. Nếu được khởi đầu ngay trong năm 2015.
Những trở ngại để đi tới liên kết vùng đã được nhận diện trên những nét cơ bản. Nhất quyết chúng ta phải vượt qua chúng. Nếu được khởi đầu ngay trong năm 2015.
Một đề xuất cách đây 25 năm
Báo cáo tổng hợp của Chương trình khoa học cấp
nhà nước Điều tra cơ bản tổng hợp đồng bằng sông Cửu Long (Chương
trình 60-B)(1), phát triển kiến nghị cần có một chính sách phát triển
kinh tế vùng cho đồng bằng sông Cửu Long, mà Chương trình đã đưa ra
năm 1986, đã đề ra tám quan điểm phát triển kinh tế vùng ĐBSCL(2),
và một số gợi ý về biện pháp nhằm thực hiện Chiến lược
phát triển vùng ĐBSCL cho đến đầu thế kỷ XXI(3).
Trong các biện pháp, Chương trình đã kiến nghị
thành lập Ban chỉ đạo phát triển vùng và hình thành Quỹ
Phát triển vùng với chức năng, nhiệm vụ, thành phần, bộ máy giúp việc
và kinh phí hoạt động(4).
Ban chỉ đạo phát triển vùng mà Chương trình đã
đề xuất không phải là một cấp trung gian giữa Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính
phủ) và các tỉnh mà là một ban công tác có chức năng phát triển kinh tế - xã
hội bằng cách kết hợp, hướng dẫn, điều phối, yểm trợ, giám sát các công tác
thực hiện quy hoạch và kế hoạch phát triển vùng dưới sự chỉ đạo của Hội đồng Bộ
trưởng.
Quỹ phát triển vùng là một định chế phát triển
đầu tư tín dụng, có tư cách pháp nhân, hạch toán kinh tế độc lập, có sự thỏa
thuận và giám sát về mặt chính sách, chế độ nghiệp vụ của Ngân hàng Nhà nước,
do Ban chỉ đạo vận động thành lập và tham gia Hội Đồng quản trị.
Đề xuất của Chương trình có thể là quá sớm vào
thời điểm đó khi mà mô hình phát triển kinh tế theo tỉnh còn phát huy
tác dụng, và đạt được những thành tựu to lớn trong giai đoạn đầu của đường
lối Đổi Mới.
Yêu cầu khách quan và việc triển khai phát triển
kinh tế vùng hiện nay
Trong những năm gần đây, trên nhiều diễn đàn,
đặc biệt từ lúc triển khai tái cơ cấu nền kinh tế, vấn đề phát triển kinh tế
vùng, liên kết giữa các tỉnh trong vùng đã được nói đến nhiều bởi lẽ tiếp tục
cách phát triển theo tỉnh, đã bộc lộ những giới hạn và những điểm yếu cơ bản:
các nền kinh tế của các tỉnh không phát huy nhau lên mà các sản phẩm còn cạnh
tranh nhau trên thị trường trong và ngoài nước với nguy cơ nhãn tiền là làm suy
yếu nhau, và nhất là hiệu quả đầu tư công thấp.
Việt Nam gia nhập WTO đã hơn bảy năm, thuận lợi
và thời cơ rộng mở đồng thời với khó khăn và thách thức phải đối diện, không ít
và gay gắt.
ĐBSCL là địa bàn cảm nhận cụ thể nhất các thách
thức, mà cụ thể là sự cạnh tranh khắc nghiệt với thị trường bên ngoài, về nông,
thủy sản. Thực tế ở đây cho thấy mỗi tỉnh đối phó chắc chắn không thể bằng toàn
vùng đối phó. Tiềm lực của 13 tỉnh thành phố cộng lại với nhau không phải là
tiềm lực kinh tế của cả vùng. Phát triển kinh tế theo tỉnh không phát huy hết
thế mạnh của đồng bằng, không phát huy khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt
Nam trên thị trường trong và ngoài nước, thậm chí còn gây trở ngại, làm thiệt
hại nhau.
Trước triển vọng ký kết nhiều hiệp định thương
mại tự do quan trọng trong thời gian tới và Hiệp ước hợp tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP), thực hiện chủ trương chủ động và tích cực hội nhập, ngày càng sâu
rộng với thế giới, phát triển kinh tế vùng càng trở nên bức xúc hơn bao
giờ.
Còn một lý do nữa thôi thúc thêm nữa việc đổi
mới quản lý và điều hành kinh tế trên quy mô vùng. Đó là ứng phó với biến đổi
khí hậu, nước biển dâng. Môi trường tự nhiên, nhất là thủy văn, không phụ thuộc
vào ranh giới hành chính, mỗi tỉnh riêng lẻ không thể ứng phó hữu hiệu với biến
đổi khí hậu, nước biển dâng.
Rất tiếc quản lý nhà nước chưa tương xứng với
yêu cầu của tình hình.
Ban chỉ đạo Tây Nam bộ đã được thành lập, nhưng
chức năng nhiệm vụ không phải là của Ban chỉ đạo đã được đề cập trên đây.
Trong Hội nghị tổng kết công tác xây
dựng và phát triển các vùng kinh tế trọng điểm giai đoạn 2006 - 2010 và định
hướng phát triển giai đoạn 2011 - 2015, tổ chức ngày 7.4.2012 tại Cần
Thơ, hầu hết các địa phương trong cả nước đã phản ánh tình trạng thiếu sự phối
hợp, thiếu sự liên kết cần thiết giữa nội vùng, liên vùng. Ngay từ khâu quy
hoạch cũng đang bộc lộ khá rõ những bất cập, thiếu tính kết nối trong bài toán
phát triển nội vùng và liên vùng, nhất là trong phân bố xây dựng các dự án năng
lượng, hạ tầng giao thông.
Những bất cập này được nêu lên từ rất nhiều năm
nhưng vẫn cứ lặp lại.
Tại Hội nghị, Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải
đã chỉ đạo:
“Giao nhiệm vụ ưu tiên cho các bộ, ngành, địa
phương liên quan thực hiện công tác rà soát, điều chỉnh lại các quy hoạch phát
triển, xây dựng cơ chế đặc thù để phù hợp với tình hình mới khi các điều kiện
thị trường tài chính, đầu tư, vốn, công nghệ cũng như lao động… hiện nay đã có
những thay đổi lớn;
(…) Các địa phương trong vùng cần thường xuyên
ngồi lại với nhau, xem xét và nhận định lợi thế cạnh tranh, lợi thế so sánh để
định hướng cho riêng mình, tạo sự đồng bộ, tăng cường giao lưu về phát triển về
đào tạo, chuẩn bị nguồn nhân lực, xây dựng hạ tầng kết nối, phân bố, kết hợp
kêu gọi đầu tư;
(…) Về tổng thể, các bộ, ngành liên quan sớm xem
xét, tháo gỡ những vướng mắc đang gây cản trở đối với sự phát triển hoặc phối
hợp đồng bộ trong và giữa các vùng kinh tế trọng điểm (KTTĐ). Cụ thể như kế
hoạch triển khai các chương trình ứng phó tình trạng biến đổi khí hậu, cơ chế
liên kết trong sản xuất và tiêu thụ hàng nông sản, kế hoạch xây dựng hệ thống
thủy lợi, cấp và thoát nước toàn vùng, công tác thông tin, chỉ đạo điều hành từ
các tổ điều phối các hoạt động chung của các vùng KTTĐ.”(5).
Ba năm sau hội nghị tổng kết tình hình cho thấy
sự chỉ đạo trên đây chưa được thực hiện bao nhiêu.
Những chỉ đạo của Phó thủ tướng
chỉ là những lời kêu gọi chừng nào chưa giải quyết được sự
vênh nhau, chồng chéo nhau giữa ba quy hoạch tổng thể phát triển kinh
tế - xã hội, quy hoạch sử dụng đất, và quy hoạch xây dựng (bao
gồm quy hoạch đô thị, quy hoạch giao thông vận tải, quy hoạch thủy lợi), và
chưa có một luật Quy hoạch hữu hiệu cho phép giải quyết các tồn tại này.
Cần thiết phải liên kết vùng, cần phát
triển kinh tế vùng! Nhưng nguyên tắc, nội dung vàphương
thức liên kết như thế nào cần được làm rõ và được chế định bằng một khung
pháp lý phù hợp, tương ứng.
Việt Nam có sáu vùng kinh tế. Liên kết để phát
triển vùng không chỉ áp dụng cho riêng đồng bằng sông Cửu Long mà cho tất cả
các vùng.
Mức độ sẵn sàng của Việt Nam cho vấn đề liên kết vùng ra
sao?
Trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội ngày
19.11.2014, Thủ tướng Chính phủ khẳng định(6):
“Trong những khu vực có điều kiện gần nhau thì
liên kết để phát triển là tất yếu. Chính phủ nhận thức rõ sự cần thiết của liên
kết vùng. Thủ tướng Chính phủ đã giao cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì xây
dựng quy chế liên kết các vùng kinh tế của cả nước, và cũng dừng ở mức quy chế
thí điểm hợp tác ở các vùng kinh tế, trong đó có vùng đồng bằng sông Cửu Long”.
“Sự cần thiết liên kết hợp tác đã rõ, nội dung
cần hợp tác cũng đã rõ và lãnh đạo các tỉnh đều đồng tình với Chính phủ. Nhưng
với thể chế chính trị của chúng ta hiện nay, phương thức lãnh đạo, quản lý điều
hành hiện nay, theo Hiến pháp, theo luật pháp hiện hành thì dựa trên căn cứ
luật pháp gì, cơ chế chính sách gì, tổ chức thế nào để liên kết hợp tác rất là
khó khăn (…). Hợp tác là cần thiết, nhưng cơ chế tổ chức như thế nào để thực
hiện được cần thảo luận thêm”.
Trả lời chất vấn trên đây cho thấy những khó
khăn còn xuất phát từ những quy định về chính quyền trung ương và địa phương
trong Hiến pháp, trong Luật Tổ chức Chính phủ, trong Luật Ngân sách và nhiều
luật khác, và về phương thức điều hành và quản lý nhà nước trong thể chế chính
trị hiện nay.
Phát triển kinh tế vùng là nhằm thúc đẩy và bảo
đảm sự phát triển cân đối, bền vững của đất nước, có tính đến các yếu tố đặc
thù và cơ hội của toàn lãnh thổ và của các vùng, giảm bớt những khác biệt giữa
các vùng, không phải bằng cào bằng, kìm hãm nhau, mà bằng bảo tồn và phát huy
những đặc tính riêng về môi trường tự nhiên, văn hóa và tiềm năng phát triển
của các vùng.
Những trở ngại để đi tới liên kết vùng đã được
nhận diện trên những nét cơ bản. Nhất quyết chúng ta phải vượt qua chúng. Nếu
được khởi đầu ngay trong năm 2015.
Đây là một yêu cầu khách quan trong bối cảnh hội
nhập và các thách thức toàn cầu ngày nay. Đây cũng là một nội hàm của tái cơ
cấu nền kinh tế, và là một nội dung của đổi mới chính trị(7).
____________
1) Đồng bằng sông Cửu Long, Tài nguyên - Môi
trường - Phát triển, Báo cáo tổng hợp của Chương trình khoa học Điều tra cơ bản
tổng hợp đồng bằng sông Cửu Long, Gs.Ts. Nguyễn Ngọc Trân, Chủ nhiệm Chương
trình chủ biên, Ủy ban Khoa học Nhà nước, Hà Nội, 3.1991.
2) Đó là: 1. Phát triển “Vì cả nước, cùng cả
nước”; 2. Phát triển nền kinh tế hàng hóa; 3. Phát triển nền kinh tế mở, liên
kết trên cơ sở phát huy cao nhất những yếu tố bên trong; 4. Phát triển đồng bộ,
năng động và vững chắc; 5. Khai thác tài nguyên, bảo vệ môi trường đúng quy
luật và phát triển bền vững; 6. Nhận thức đúng mức tầm quan trọng, khai thác
vùng lãnh hải, các đảo và quần đảo; 7. Phát huy vị trí địa lý trung tâm khu vực
Đông Nam châu Á của ĐBSCL và Nam bộ, nơi đã từng có thời kỳ cực thịnh trong
giao lưu kinh tế với bên ngoài; 8. Ý chí phát triển. Tài liệu đã dẫn, trang 252
- 255.
3) Đó là: 1. Vấn đề vốn; 2. Các chính sách đòn
bẩy; 3. Các Chương trình mục tiêu, các vấn đề then chốt cần triển khai; 4. Vấn
đề khoa học, kỹ thuật và môi trường; 5. Năm đổi mới định chế và cơ chế quản lý
kinh tế-xã hội (tiền tệ, ngân sách-thuế, ngân hàng-tín dụng, hành chính, luật
pháp); 6. Về tổ chức thực hiện. Tài liệu đã dẫn, trang 267 - 282.
4) Tài liệu đã dẫn, trang 267-284.
5) Trích từ cổng thông tin Chính phủ, về hội
nghị đã dẫn.
7) Diễn văn bế mạc của Tổng bí thư Nguyễn Phú
Trọng tại Hội nghị Ban Chấp hành TW lần thứ Mười (Khóa XI).
Gs. Tskh Nguyễn
Ngọc Trân
Nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại,
Nguyên Chủ nhiệm Chương trình khoa học cấp nhà nước 60-B
Nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại,
Nguyên Chủ nhiệm Chương trình khoa học cấp nhà nước 60-B
Nhận xét
Đăng nhận xét