|
TBKTSG, thứ năm 17/11/2016
Trung Chánh
(TBKTSG Online) Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam (VCCI) đã gửi bản kiến nghị bỏ hàng loạt các điều kiện kinh doanh- trong đó
có điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo- được bổ sung vào dự luật sửa đổi bổ sung
danh mục ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện dự kiến sẽ trình Quốc hội
thông qua vào ngày mai 18-11. Doanh nghiệp kinh doanh lúa gạo nói gì về vấn đề
này khi quy định hiện hành là Nghị định 109 vẫn đang cản trở cơ hội xuất khẩu
gạo của các doanh nghiệp nhỏ.
Có nên tiếp tục duy
trì hay nâng cấp nghị định 109 lên thành luật. Trong ảnh là nông dân đang thu
hoạch lúa. Ảnh: Trung Chánh.
Nghị định
109/2010/NĐ-CP của Chính phủ quy định doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gạo
phải có một kho chuyên dụng sức chứa tối thiểu 5.000 tấn phù hợp quy chuẩn
chung theo quy định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; có ít nhất một
cơ cở xay xát lúa gạo công suất tối thiểu 10 tấn/giờ; phải xuất khẩu tối thiểu
10.000 tấn gạo/năm, nếu không bị rút giấy phép kinh doanh…
“Cắt đứt” cơ hội tiếp
cận thị trường của doanh nghiệp
Ông Võ Minh Khải, Tổng
giám đốc Công ty cổ phần Thương mại và Sản xuất Viễn Phú, cho biết: "Thực
tế thời gian vừa qua, với những quy định của Nghị định 109, nhất là quy định số
lượng xuất khẩu (tối thiểu 10.000 tấn/năm) đã cản trở cơ hội tiếp cận thị
trường của không ít doanh nghiệp và trao cơ hội cho các doanh nghiệp “đại gia”
khác".
Theo ông Khải, thị
trường là đa dạng nên đâu phải chỉ một vài doanh nghiệp lớn mới làm được, còn
doanh nghiệp nhỏ, trung bình làm không được. “Vấn đề ở đây là giá xuất khẩu
phải bằng và cao hơn giá sàn quy định, thì thị trường sẽ không bị hỗn loạn”,
ông cho biết.
Ông Khải cho rằng phải
làm sao tạo cơ hội bình đẳng cho các doanh nghiệp và không làm rối loạn thị
trường, đặc biệt với những doanh nghiệp vừa xuất khẩu và tự sản xuất, thì càng
phải khuyến khích, mở hơn nữa. “Việc Nhà nước sợ rối loạn thị trường thì kiểm
soát bằng giá sàn, chứ không nên quy định số lượng bán ra. Anh có thể bán 3.000
tấn, 5.000 tấn hay 10.000 tấn gì đó không biết, nhưng không được thấp hơn mức
giá quy định”, ông nói.
Không còn phù hợp thì
nên bỏ
Ông Lâm Anh Tuấn, Giám
đốc Công ty TNHH Thịnh Phát, cho rằng khi Nhà nước đề ra một quy định gì đó,
nếu có tác động tích cực thì ủng hộ, còn không thì không nên cho tồn tại tiếp,
bởi không khéo sẽ trở thành gánh nặng cho doanh nghiệp.
Theo ông Tuấn, trước
đây Nghị định 109 về kinh doanh xuất khẩu gạo có điều kiện ra đời là để doanh
nghiệp đầu tư cơ sở hạ tầng, máy móc nhằm có đủ điều kiện hoạt động cho chuyên
nghiệp, nâng cao chất lượng gạo; khuyến khích doanh nghiệp gắn bó lâu dài, bởi
có đầu tư thì mới gắn bó lâu dài với ngành lúa gạo. Một lý do nữa là lúc bấy
giờ vẫn đặt nặng vấn đề an ninh lương thực, tức khi doanh doanh mua bán phải có
kho để khi ký hợp đồng có sẵn "chân hàng", tránh chuyện biến động giá
cả. Lúc đó trong mấy trăm đơn vị xuất khẩu, thậm chí có những đơn vị bán chỉ
1-2 container gạo, nhưng cũng có doanh nghiệp bán mấy trăm ngàn tấn/năm, nên có
quy định xuất khẩu tối thiểu 10.000 tấn/năm (thấp hơn sẽ bị rút giấy phép) nhằm
tránh bán phá giá, gây khó khăn cho những doanh nghiệp bán số lượng lớn đi đàm
phán.
Tuy nhiên, theo ông
Tuấn, hiện nay tất cả những yếu tố đó đã thay đổi nên sự tồn tại của Nghị định
109 là không cần thiết.
Cụ thể, theo ông, thứ
nhất Việt Nam đã tham gia một số hiệp định thương mại tự do, đi vào nền kinh tế
thị trường nên không cần phải ràng buộc cấm hay không cấm nữa, mà nên buôn bán
tự do; thứ hai, khái niệm về an ninh lương thực cũng nên thay đổi. Ví dụ, ngày
xưa đặt mục tiêu an ninh lương thực để sản xuất nhiều và xuất khẩu lúc bấy giờ
7-8 triệu tấn gạo/năm để cuối cùng lo an ninh lương thực luôn cho cả khu vực.
Nhưng điều này không đem lại thu nhập cao cho nông dân và bây giờ lúa gạo cứ ba
tháng có một vụ nên không nhất thiết đặt nặng an ninh lương thực như vậy nữa.
Ông Tuấn cho rằng bây
giờ nên tự do hóa, không nên giữ nghị định đó nữa bởi có nhiều doanh nghiệp
buôn bán thì người sản xuất (nông dân) mới có lợi. Việc bắt buộc doanh nghiệp
một năm phải bán 10.000 tấn nếu không sẽ rút giấy phép sẽ tạo ra áp lực và
doanh nghiệp bằng mọi cách phải bán, bán huề, bán lỗ chút đỉnh cũng phải bán để
duy trì giấy phép. “Thành ra, nói ngắn gọn lại, nếu duy trì nghị định này nó sẽ
trở thành gánh nặng cho doanh nghiệp”, ông khẳng định.
Duy trì, nhưng sửa những quy
định không còn phù hợp
Ông Phạm Thái Bình,
Giám đốc Công ty cổ phần nông nghiệp công nghệ cao Trung An, cho rằng đưa xuất
khẩu gạo vào ngành nghề kinh doanh có điều kiện là đúng. Nhưng, có một số quy
định không phù hợp thì phải chỉnh sửa, chứ bãi bỏ hoàn toàn thì không nên.
Theo ông Bình, những
điểm không phù hợp là khi doanh nghiệp đã đáp ứng đủ điều kiện kinh doanh xuất
khẩu gạo, tức đã có kho chứa, có nhà máy, thì lẽ ra họ được quyền xuất khẩu gạo
đi bất cứ nơi đâu và chỉ cần kê khai qua hải quan theo luật định thôi. Nhưng,
quy định lại bắt buộc phải đăng ký qua Hiệp hội lương thực Việt Nam (VFA) là
một điều vô lý. “Đăng ký qua VFA là một điều vô lý. Không lẽ VFA quyết định
xuất khẩu gạo của các doanh nghiệp hay sao? Đây là cái bất hợp lý”, ông nói.
Theo ông Binh, có một
số doanh nghiệp muốn bãi bỏ Nghị định 109 vì không muốn xây dựng vùng nguyên
liệu, không chịu liên kết, muốn xuất theo kiểu phá giá, cho nên, kinh doanh gạo
có điều kiện là cần thiết và phải nhìn vào tổng thể của ngành, chứ không thể
nhìn vào một vài doanh nghiệp được.
Một lần nữa ông Bình
khẳng định, kinh doanh xuất khẩu gạo thời gian tới vẫn phải là ngành có điều
kiện, không thể thả nổi. “Nhưng, Nghị định 109 có một số điều quy định bất hợp
lý, thì nên xem xét bãi bỏ cho hợp lý”, ông cho biết.
Ông Trần Hữu Hiệp, Ủy
viên chuyên trách Ban chỉ đạo Tây Nam bộ, cho rằng phải nhìn nhận ở hai góc độ
là tại sao có Nghị định 109 và quá trình thực hiện có bất cập gì?
Theo ông, điều đầu
tiên phải thấy sự cần thiết để ban hành Nghị định 109 vì trong suốt một thời
gian dài có sự lộn xộn trong kinh doanh xuất khẩu gạo, cần phải sắp xếp lại và
sau đó đã có hơn 100 doanh nghiệp được xác định là đầu mối xuất khẩu gạo trực
tiếp, đáp ứng được những điều kiện quy định trong Nghị định 109.
Thế nhưng, một số vấn
đề được đặt ra, đó là điều kiện về kho bãi, vùng nguyên liệu, điều kiện hợp
đồng…, thì thực tiễn không đáp ứng được điều đó. Có trường hợp, những hợp đồng
là để hợp thức hóa điều kiện, cho nên, để thay đổi một chính sách cần phải rà
soát, đánh giá, tổng kết thật sâu, nhất là khi nó nâng lên thành luật.
Theo ông Hiệp, nếu
không có công cụ quản lý, thì trở nên bát nháo, nhưng "bó" quá thì
cũng sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp.
Mời xem thêm:
Doanh nghiệp
cần được kinh doanh trên quê hương mình http://www.thesaigontimes.vn/153914/Doanh-nghiep-can-duoc-kinh-doanh-tren-que-huong-minh.html
Nhận xét
Đăng nhận xét