Trần Hiệp Thủy, Ngụy T. Khanh
ĐBSCL không chỉ được xác định là “vùng nông sản lớn trong mạng
lưới sản xuất toàn cầu” mà còn là một trong các “trung tâm năng lượng quốc
gia”.
ĐBSCL đang trở thành một trung tâm năng lượng lớn của cả nước,
với tổng công suất phát điện vào năm 2030 lên đến 18.224 MW, gấp 7,6 lần nhà
máy thủy điện Sơn La có công suất lớn nhất Đông Nam Á (2.400 MW). Nhưng điều
đáng lo ngại theo quy hoạch là phần lớn nguồn phát điện ở ĐBSCL phụ thuộc vào
nhiệt điện than.
Theo Quy hoạch Điện VII điều chỉnh năm 2016, vùng này có 6 trung
tâm nhiệt điện, gồm 14 nhà máy nhiệt điện than. Trong đó, có 8 nhà máy trong
quy hoạch, 2 nhà máy đang vận hành là Duyên Hải 1 và Duyên Hải 3 và có 4 nhà
máy đang xây dựng.
Ảnh:
PHAN THANH CƯỜNG
Ba mối lo từ nhiệt điện than
Việc hình thành trung tâm điện lực ĐBSCL phụ thuộc vào nhiệt
điện than đang đặt ra 3 mối lo lớn, cần giải quyết. Đó là ô nhiễm nguồn nước,
không khí và tác động của tro xỉ.
Theo các chuyên gia, nhà máy nhiệt điện than là những cỗ máy
tiêu tốn nước khổng lồ. Tổng lượng nước làm mát cần cho 14 nhà máy nhiệt điện
than ở ĐBSCL khoảng 70 triệu m3/ngày đêm. Nhiệt độ của lượng nước
này khi ra môi trường cao hơn nhiệt độ nước đầu vào khoảng 8ºC, vào mùa hè nước
thải ra có thể lên đến gần 40ºC. Các nhà máy nhiệt điện than được đặt gần biển
và sông để tiện cho vận chuyển than và lấy nước làm mát. Nước nóng thải ra từ
các nhà máy nhiệt điện sẽ phá hủy hệ sinh thái dưới nước, ảnh hưởng rất lớn đến
đánh bắt cũng như nuôi trồng thủy sản của vùng này. Tình hình ở ĐBSCL càng
nghiêm trọng hơn nếu chịu tác động của nhiệt điện cùng với biến đổi khí hậu và
ảnh hưởng của thủy điện thượng nguồn.
Cùng với ô nhiễm nguồn nước là ô nhiễm không khí từ các nhà máy
nhiệt điện than. Nhiệt đốt than ngoài phát tán khí CO2 còn phát tán ra các khí
độc hại khác như bụi mịn (PM2.5), khí SO2, NOx và một số chất độc hại khác. Các
loại bụi mịn (PM2.5), SOx, NOx gây ra nhiều bệnh như ung thư phổi, đột quỵ,
bệnh tim và các bệnh hô hấp khác như hen xuyễn… Hiện nay hầu hết các nhà máy
chỉ lọc được bụi mịn, khí SO2, NOx, còn các loại khí độc hại khác vẫn chưa làm
được. Tuy nhiên mặc dù có bộ lọc nhưng vẫn còn một lượng lớn các chất này bay
ra không khí và phát tán ra xung quanh đến hàng trăm km. Theo Trung tâm Nghiên
cứu Ung thư Quốc tế, riêng PM2.5 đã gây ra khoảng 3 triệu cái chết yểu trên
toàn thế giới.
Không chỉ tác động đến nguồn nước và ô nhiễm không khí, các nhà
máy nhiệt điện than còn thải ra một lượng lớn tro xỉ. Trong khi, cho đến nay,
việc xử lý và sử dụng lượng tro xỉ đó như thế nào đang là bài toán của ngành
xây dựng, vấn đề kinh tế và môi trường.
Theo các chuyên gia, mỗi năm lượng than cần dùng cho 14 nhà máy
nhiệt điện ở ĐBSCL ước tính khoảng 64 triệu tấn, trong đó duy nhất Duyên Hải 1
sử dụng than nội địa, những nhà máy còn lại dự kiến sử dụng than nhập. Ước tính
thải ra khoảng 6 triệu tấn tro xỉ. Nếu đắp cao 5m, nhu cầu sử dụng đất để chôn
lấp tro xỉ là 85ha/năm. Mặc dù Thủ tướng Chính phủ đã ra các quyết định về xử
lý tro xỉ nhưng cho đến nay vẫn chưa có quy chuẩn đối với tro xỉ được sử dụng
làm nguyên vật liệu xây dựng. Vì vậy việc sử dụng tro xỉ vẫn còn tự phát với số
lượng hạn chế, phần lớn là chôn lấp, nên đây là một vấn đề nhức nhối cho công
tác quản lý tro xỉ trong tương lai ở ĐBSCL.
Triển vọng "tuabin xanh" từ năng
lượng tái tạo
ĐBSCL được đánh giá là vùng có tiềm năng rất lớn cho phát triển
năng lượng tái tạo (NLTT). Theo nghiên cứu của Viện Năng lượng cho tổ chức Phát
triển Đức (GIZ) đầu năm 2018, nếu xét chi phí đầu tư một dự án điện mặt trời ở
mức 7,5 cent/KWh với chi phí sử dụng vốn ở mức 7,8% thì tổng tiềm năng kinh tế
của điện mặt trời tại khu vực ĐBSCL lên tới 136.275 MW, điện lượng ước tính lên
tới 216,5 tỉ kWh hàng năm. Con số này gấp đôi so với tổng toàn bộ 14 nhà máy
nhiệt điện than mà điện lượng hàng năm ước tính chỉ khoảng 108 tỉ kWh. Đó là
chưa kể đến nguồn điện từ gió, từ sinh khối… khá dồi dào ở vùng này.
Trái ngược với nhiệt điện, phát triển nguồn điện từ năng lượng
tái tạo hầu như không gây ra các tác động đến môi trường, xã hội. Ngoài ra, với
những lợi thế của mình, phát triển năng lượng tái tạo cũng là cơ hội cho ĐBSCL
thúc đẩy những đồng lợi ích về kinh tế - xã hội, giúp đa dạng hóa nguồn cung
năng lượng, là động lực thúc đẩy chuỗi giá trị địa phương và đồng thời là giải
pháp phù hợp nhằm hoàn thành các mục tiêu quốc gia về điện khí hóa nông thôn.
Tuy nhiên, phát triển năng lượng tái tạo không thể cùng lúc tạo
ra sự đột phá như việc đổ tiền vào xây dựng một nhà máy nhiệt điện than có thể
phát ra hàng ngàn MW. Đó là một quá trình nhận thức và chuyển dịch năng lượng
từ nâu sang xanh.
Để ĐBSCL là một "tuabin xanh" cần nghiên cứu lại nhu
cầu điện của ĐBSCL và phân tích chi phí và lợi ích của các kịch bản phát triển
năng lượng khác nhau theo mô hình phát triển bền vững để xem xét tính cấp thiết
của việc phát triển 14 nhà máy nhiệt điện than như trong Quy hoạch Điện VII và
xem xét phát triển điện từ nguồn năng lượng tái tạo để thay thế nhiệt điện than
và bảo đảm an toàn môi trường. Bên cạnh đó, cần các cơ chế chính sách, tài
chính để thúc đẩy doanh nghiệp, người dân và cộng đồng tham gia phát triển và
ứng dụng NLTT để đảm bảo an ninh năng lượng, giảm thiểu nhiệt điện than để giảm
thiểu tác động tới môi trường, bảo đảm phát triển bền vững các ngành truyền
thống và thế mạnh của ĐBSCL đặc biệt là thủy sản.
TRẦN HIỆP THỦY - NGỤY T. KHANH
Nhận xét
Đăng nhận xét