Trung Chánh
(TBKTSG) - Khung pháp lý hỗ
trợ doanh nghiệp trong ngành nông nghiệp chuyển sang phát triển nông nghiệp hữu
cơ đã có, nhưng sự trở mình trên thực tế vẫn rất khó khăn.
Sản phẩm gạo sạch của một doanh
nghiệp. Ảnh: Trung Chánh
Điều kiện cần đã có, nhưng…
Hồi tháng 4-2018, Bộ Khoa học và
Công nghệ đã chính thức ban hành bộ tiêu chuẩn Việt Nam dành cho sản xuất, trồng
trọt, chăn nuôi, chế biến và ghi nhãn sản phẩm nông nghiệp hữu cơ. Đây được xem
là cơ sở pháp lý quan trọng, tạo bước ngoặt cho sản xuất nông nghiệp hữu cơ ở
Việt Nam, là những điều kiện ràng buộc để sản phẩm được cấp chứng nhận hữu
cơ.
Ông Võ Minh Khải, Giám đốc Công
ty Viễn Phú (Cà Mau), nhận xét: “Bộ tiêu chuẩn này giúp nhà sản xuất biết mình
cần đáp ứng những tiêu chí nào để được mặc chiếc áo hữu cơ”. Nhưng ông còn băn
khoăn: “Liệu những tiêu chuẩn mà Việt Nam mới ban hành này có được thế giới
công nhận hay không?”. Vì nếu không, nó sẽ “không có ý nghĩa” đối với những người
làm sản phẩm nông nghiệp hữu cơ hướng đến xuất khẩu. “Còn ở phạm vi tiêu thụ
trong nước thì không có vấn đề, chỉ cần thuyết phục được người tiêu dùng”, ông
Khải nói.
Vì vậy, ông Khải gợi ý bộ tiêu
chuẩn nông nghiệp hữu cơ của Việt Nam cần có sự ràng buộc công nhận lẫn nhau giữa
Việt Nam và thế giới. “Chẳng hạn, Thái Lan hay Indonesia đều có tiêu chuẩn nông
nghiệp hữu cơ, giữa Việt Nam với các nước này cần có sự ràng buộc công nhận lẫn
nhau”, ông nói.
Trong khi đó, vấn đề nguồn vốn
cho việc thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ dường như vẫn chưa được
giải quyết, dù Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ vốn, khuyến khích
đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Ông Khải cho biết, đến nay, doanh nghiệp của
ông vẫn chưa thể tiếp cận các nguồn vốn vay. “Chính sách hỗ trợ thì nhiều nhưng
thực tế có hay không lại là vấn đề khác”. Như mới đây, Chính phủ tiếp tục có
Nghị định 57/2018 khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn.
“Nếu việc thực hiện được đúng như tinh thần của nghị định thì sẽ mở ra cơ hội rất
lớn cho sản xuất nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ. Nhưng vấn đề là việc vận
dụng nghị định này như thế nào trong thực tiễn”, ông Khải tiếp tục bày tỏ sự
băn khoăn.
Về vấn đề này, ông Trần Hữu Hiệp, một nhà
nghiên cứu kinh tế ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), cho rằng việc ban hành một
chính sách nào đó cần được cân đối nguồn lực để thực hiện. Ví dụ với Nghị định
210/2013 về khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp nông thôn nhưng được
giao về cho địa phương tự cân đối nguồn lực. Thực tế là có tới 12/13 địa phương
trong vùng không đủ lực bù lãi suất cho vay. Theo ông Hiệp, việc khuyến khích sản
xuất nông sản sạch, nông sản hữu cơ cần có chính sách giống như khuyến khích ứng
dụng công nghệ cao. Và ngoài vấn đề tính toán, cân đối, bố trí nguồn lực cho một
chính sách được ban hành còn cần phải chú ý đến công tác rà soát, đánh giá việc
thực thi.
Xu hướng tất yếu nhưng còn chậm
Ông Hồ Quang Cua, Giám đốc doanh
nghiệp tư nhân Hồ Quang, nguyên Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn tỉnh Sóc Trăng, cho rằng nông nghiệp hữu cơ là xu hướng tiêu dùng tất yếu
trên thế giới hiện nay và trong tương lai, nhưng việc thúc đẩy phát triển ở Việt
Nam vẫn còn nhiều hạn chế.
Điểm hạn chế đầu tiên nằm ở mức độ
chấp nhận của thị trường tiêu dùng còn thấp nên những người tiên phong sản xuất
hữu cơ ít nhiều đều phải chấp nhận “hy sinh”. “Khi nào khâu truyền thông giúp
nâng cao hơn nữa nhận thức của người dân về nông nghiệp hữu cơ thì nhà đầu tư mới
dám đầu tư mạnh hơn”, ông nhận định.
Còn theo ông Võ Minh Khải, Công
ty Viễn Phú, điều căn bản của sản xuất là nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng. “Tùy
vào nhu cầu của người tiêu dùng mà mỗi nền sản xuất nông nghiệp hữu cơ của mỗi
nước đi nhanh hay chậm”, ông chia sẻ suy nghĩ của mình.
Cũng theo ông Khải, nền nông
nghiệp Việt Nam đã chuyển sang thâm canh, năng suất cao, gia tăng sản lượng từ
hai ba chục năm trước. Hạ tầng phục vụ sản xuất, từ kênh mương, thủy lợi, đến
vật tư đầu vào… đều định hướng cho nhu cầu đó. Nay muốn chuyển sang sản xuất
nông nghiệp hữu cơ thì phải thay đổi hạ tầng sản xuất và nhiều yếu tố liên quan
khác. Việc này cần chi phí lớn và cần thời gian.
Để “kích hoạt” nông nghiệp hữu cơ
Ở góc độ của người làm nông nghiệp
hữu cơ từ cách nay 10 năm và sản phẩm đã đạt tiêu chuẩn của Mỹ và châu Âu, ông
Võ Minh Khải cho biết cần có một nguồn tài chính rất lớn cho việc thay đổi hạ tầng
sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Vì vậy, để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi sang sản
xuất hữu cơ, ngoài chính sách về vốn, Chính phủ cần có những chính sách khuyến
khích cụ thể liên quan đến đất đai, chuyển đổi hạ tầng, giống, vật tư đầu vào…
Muốn nông nghiệp hữu cơ phát triển bền vững thì cần vẽ nên một bức tranh tổng
thể và có kế hoạch cho từng giai đoạn, chẳng hạn mục tiêu chuyển đổi trong vòng
5-10 năm như thế nào; vùng nào chuyển trước, vùng nào cần bước chậm hơn…
Còn theo ông Trần Hữu Hiệp, do nền nông
nghiệp Việt Nam đã một thời gian dài đi theo mô hình tăng trưởng chiều rộng, sử
dụng nhiều vật tư, phân bón, nên việc thay đổi “quán tính” cần một thời gian
dài. Ông Hiệp cho rằng có một số việc cần thực hiện để đẩy nhanh quá trình
chuyển đổi. Thứ nhất, cần sự nhận thức đúng về nông nghiệp hữu cơ trên nền tảng
truyền thống (tức sản xuất theo tự nhiên như người xưa từng làm) cộng với những
xu hướng tiêu dùng mới. Về điều này, người nông dân sớm có nhận thức thì việc
chuyển đổi mới nhanh hơn được. Thứ hai, khi đã có bộ tiêu chuẩn cho nông nghiệp
hữu cơ rồi thì cần đặt ra nhiệm vụ làm thế nào để áp dụng hiệu quả các tiêu chuẩn
đó.
Kế đến là việc thực hiện chuỗi sản phẩm
nông nghiệp sạch. Ông Hiệp cho rằng việc đặt vấn đề quy hoạch vùng sản xuất
nông nghiệp hữu cơ là cần thiết, nhưng nếu chỉ quy hoạch sản xuất thôi thì
chưa giải quyết được vấn đề, vì quá trình sản xuất nông nghiệp hữu cơ tác động
đến nhiều thứ. Chẳng hạn việc sản xuất lúa gạo sạch hay các mặt hàng nông sản sạch
khác phải gắn với quá trình chế biến, tồn trữ…
Như vậy, để có được những nông sản hữu
cơ, nông sản sạch có giá trị cao, cần áp dụng vận hành chuỗi giá trị sản phẩm.
“Chính những tiêu chuẩn quốc gia và những yêu cầu của thị trường sẽ tác động
vào sự vận hành của chuỗi, từ khâu giống, khâu tổ chức sản xuất cho đến chế biến,
phân phối”, ông Hiệp nói.
Nhận xét
Đăng nhận xét