Chuyển đến nội dung chính

MUA BÁN HÀNG RONG DƯỚI GÓC NHÌN CHÍNH SÁCH[1]

                                                                                                                     ThS. Trần Hữu Hiệp

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tại các đô thị vùng sông nước miền Tây Nam Bộ, nơi có nhiều sản vật tự nhiên, ẩm thực hấp dẫn và sinh hoạt mang tính cộng đồng cao; hoạt động mua bán hàng rong diễn ra thường xuyên, đa dạng về chủng loại, phong phú về hình thức và có phần “lộn xộn” về tính tự phát. 
TP. Cần Thơ – Tây Đô là đô thị trung tâm vùng ĐBSCL về nhiều mặt, quận Ninh Kiều là “cửa ngõ” của Tây Đô, hoạt động này diễn ra thường xuyên tại các tuyến phố, khu vực đông dân cư, nhiều khách tham quan du lịch, tại các “chợ chồm hổm”; hoặc mua bán nhộn nhịp dưới sông (chợ nổi, ghe hàng, …).
Nhu cầu sử dụng “hàng rong” của cư dân và du khách tại quận trung tâm Ninh Kiều nói riêng và TP. Cần Thơ nói chung, không chỉ là nhu cầu tiêu dùng mà còn là tập quán sinh hoạt mang đậm nét văn hoá, là một nhu cầu khách quan. Theo đó, “mua bán hàng rong” tồn tại để đáp ứng cung – cầu. Song, nó cũng mang theo những mặt tiêu cực như: làm mất mỹ quan độ thị, không đảm bảo trật tự, an toàn giao thông, an toàn vệ sinh thực phẩm.
Do nhìn nhận thực trạng này một cách phiến diện, thiếu giải pháp đồng bộ mà nhiều nơi đã sử dụng các biện pháp hành chính “cứng rắn” như xử phạt nặng người bán, tịch thu phương tiện mua bán hàng rong. Nhưng mua bán hàng rong vẫn tồn tại với sức sống riêng của nó, bất chấp việc cấm đoán. Vấn đề đặt ra đối với hoạt động này khi thực thi các giải pháp, biện pháp hành chính, kinh tế - xã hội, môi trường … là góc nhìn chính sách – pháp luật. Đó cũng là nội dung chính của tham luận này.

II. NỘI DUNG & ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
1. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn cần thống nhất về mua bán hàng rong
Các nghiên cứu lý luận và thực tiễn cho thấy, hoạt động mua bán hàng rong với cả hai mặt, tiêu cực và tích cực của nó đã, đang và sẽ còn tồn tại lâu dài tại các đô thị ở nước ta. Vấn đề đặt ra là “chính sách ứng xử” với nó như thế nào của nhà quản lý, sao cho vẫn giải quyết nhu cầu khách quan về sinh kế của người dân, nhu cầu sử dụng “hàng rong” của người tiêu dùng, lồng ghép với phát triển du lịch, làng nghề và đảm bảo trật tự, mỹ quan đô thị.
“Khái niệm” mua bán hàng rong có thể được hiểu là những “hoạt động thương mại” thường xuyên, chủ yếu là mua bán hàng hóa tiêu dùng, cung ứng dịch vụ và các hoạt động nhỏ lẻ nhằm mục đích sinh lợi, như­ng không thuộc đối t­ượng phải đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. Theo đó, mua bán rong, bao gồm mua dạo, bán dạo, không có địa điểm cố định (mua rong, bán rong hoặc vừa mua rong vừa bán rong); mua bán không có địa điểm cố định (mua bán vặt) như thức ăn nhanh đường phố, bán vé số, sách báo cá nhân, mua phê liệu, phế thải, dịch vụ đánh giầy, chữa khóa, sửa xe, trông giữ xe, rửa xe, cắt tóc và các dịch vụ khác không có địa điểm cố định hoặc địa điểm “cố định tạm thời”. Đặc điểm chung của mua, bán hàng rong là “không có địa điểm cố định”. Tuy nhiên, trong thực tế, cũng tồn tại những điểm bán rong “cố định tạm thời” do những người bán rong lấn chiếm lòng, lề đường, khu phố, khu chợ mà không có đăng ký hay được phép sử dụng. Người bán hàng rong cũng không được luật định là thương nhân hay là người buôn chuyến[2].
2. Cơ sở pháp lí cho sự tồn tại của hoạt động bán hàng rong:
Cơ sở thực tế đã rõ. Song, có hay không một cơ sở pháp l‎ý cho hoạt động bán hàng rong? Mặc dù hoạt động này đã tồn tại lâu đời và diễn ra thường xuyên trong đời sống hàng ngày, tập trung ở khu vực đô thị, nhưng khái niệm bán hàng rong không có trong Luật Thương mại. Theo nghiên cứu của tôi, qua việc rà soát và đối chiếu các văn bản pháp luật hiện hành, thì văn bản có tính pháp lý cao nhất hiện nay trực tiếp điều chỉnh hoạt động bán hàng rong là Nghị định số 39/2007/NĐ-CP ngày 16-3-2007 của Chính phủ, quy định về hoạt động thương mại một cách độc lập, th­ường xuyên không phải đăng ký kinh doanh. Cụ thể, Điều 3 của Nghị định này nêu rõ: “Buôn bán rong (buôn bán dạo) là các hoạt động mua, bán không có địa điểm cố định (mua rong, bán rong hoặc vừa mua rong vừa bán rong), bao gồm cả việc nhận sách báo, tạp chí, văn hóa phẩm của các th­ương nhân đ­ược phép kinh doanh các sản phẩm này theo quy định của pháp luật để bán rong”. 
Cá nhân hoạt động bán hàng rong tự mình hàng ngày thực hiện một, một số hoặc toàn bộ các hoạt động được pháp luật cho phép về mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác như­ng không thuộc đối t­ượng phải đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật và không phải là “th­ương nhân” theo quy định của Luật Thương mại.
Như vậy, mặc dù cần phải tiếp tục hoàn thiện, nhưng “cơ sở pháp lí” để các hoạt động bán hàng rong tồn tại đã  được xác định. Ngoài ra, các nguyên tắc Hiến định và luật định về quyền tự do kinh doanh, công dân được kinh doanh tất cả những ngành nghề pháp luật không cấm, quyền tự do đi lại, cư trú, quyền có việc làm của người lao động … đã được quy định trong Hiến pháp, các luật chuyên ngành cũng chính là các căn cứ pháp lí quan trọng cho hoạt động bán hàng rong tồn tại hợp pháp. Vấn đề còn lại là biện pháp tổ chức, sắp xếp, bố trí, quản lí, sử dụng tổng hợp các giải pháp kinh tế, văn hoá – xã hội, hành chính, kể cả việc xử phạt để đảm bảo yêu cầu quản lí … được thực thi như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất.
3. Mua bán hàng rong dưới góc nhìn chính sách và đề xuất các giải pháp:
Mua bán hàng rong cần được nhìn nhận dưới góc nhìn của chính sách kinh tế, văn hoá, xã hội, môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm và yêu cầu quản lí nhà nước về trật tự an toàn xã hội.      
3.1. Chính sách kinh tế: hoạt động mua bán hàng rong đã tồn tại như một “bộ phận cấu thành” của nền kinh tế nhiều thành phần – kinh tế cá thể “nhỏ và siêu nhỏ” – có quan hệ sở hữu, vận hành theo “quy luật cung – cầu”, “quy luật giá trị” … của kinh tế thị trường. Do tính chất “mua tận gốc, bán tận ngọn, trực tiếp, giá cả bình dân”, nên bán hàng rong đã chiếm phần lớn thị phần. Qua giao tiếp với khách hàng, người bán hàng rong cũng rút ra được nhiều kinh nghiệm thực tiễn và kỹ năng kinh doanh mà khó có trường học l‎ý thuyết nào mang lại.
Dưới góc độ kinh tế, bán hàng rong là một “kênh tiêu thụ truyền thống”. Đội ngũ bán hàng rong là những người có nhiều kinh nghiệm thực tiễn trong việc phân phối hàng hóa đến tận tay người tiêu dùng. Bán hàng rong đã xác lập được một kênh tiêu thụ tự nhiên, bền chặt. Mặc dù là một hoạt động kinh tế không chính qui, không chính thức, thậm chí tên gọi của các “chủ thể” cũng chưa được luật định, nhưng hoạt động bán hàng rong là một phần quan trọng của mạng lưới phân phối, có lợi thế cạnh tranh với hệ thống thương mại quốc doanh hay hệ thống cửa hàng, siêu thị hiện đại của các công ty lớn nhờ sự gần gũi và trực tiếp với người tiêu dùng. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh kinh tế khó khăn. Nếu hoạt động bán hàng rong không còn, chắc chắn hệ thống các chợ đầu mối sẽ bị ảnh hưởng, khu vực nông nghiệp, nông thôn, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ theo mô hình hộ kinh tế gia đình nhỏ lẻ sẽ gặp khó khăn, kênh phân phối bình dân ở khu vực đô thị bị tắc nghẽn.
3.2. Chính sách văn hoá – xã hội: hàng rong là một nét văn hoá đặc trưng miệt vườn, sông nước Miền Tây; tạo việc làm, tăng khả năng giao tiếp;mang lại lợi ích cho người tiêu dùng, là môi trường thực tiễn sinh động rèn luyện cho các “thương nhân tương lai”. Hầu hết những người bán hàng rong là từ nông thôn hoặc khu vực ngoại thành, họ mưu sinh vì nhiều lí do rất khác nhau: thu nhập thấp, không ổn định, không có công ăn việc làm, không đất sản xuất, mất nghề truyền thống hoặc không còn con đường mưu sinh nào khác. Khi người bán, người mua giao lưu trực tiếp, cũng làm tăng khả năng giao tiếp, trao đổi thông tin. Theo cách này, hệ thống người bán hàng rong có thể góp phần nâng cao hiểu biết lẫn nhau giữa các nhóm người, tạo gắn bó thông qua sinh hoạt cộng đồng thường xuyên hàng ngày.
4. Đề xuất một số chính sách, giải pháp:
4.1. Chính sách và pháp luật: trong khi chưa có những chính sách tập trung hỗ trợ và huy động đầu tư như chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, đào tạo nghề lao động nông thôn, ngoài Nghị quyết 06/NQ-HĐND ngày 05-7-2013 của HĐND thành phố như đã nêu, cần có cơ chế nguồn vốn, chỉ đạo hỗ trợ đào tạo nghề cho dân nghèo thành thị, đặc biệt là đối tượng bán hàng rong. Chính quyền thành phố cần ban hành các văn bản pháp qui có liên quan để định hướng, tạo điều kiện tổ chức quản lí tốt, xử phạt nghiêm minh các hành vi vi phạm liên quan hoạt động bán hàng rong.
  4.2. Giải pháp qui hoạch: cần rà soát, qui hoạch hoạch mới và bổ sung các làng nghề, sản phẩm, dịch vụ truyền thống là “nguồn cung” của hoạt động bán hàng rong theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính hợp lý. Cần quy hoạch những khu phố, điểm bán hàng rong tập trung, chợ đêm, phố đi bộ, khu du lịch ẩm thực thu hút khách, xây dựng văn hoá thương mại. Quy hoạch các tuyến đường, phần đường được phép sử dụng hay các điểm tập trung được phép bán hàng rong, tiến tới việc cấp trang phục như áo bà ba, nón lá cho phụ nữ, thẻ bán hàng hay các hình thức nhận dạng phù hợp khác cho người hành nghề theo các thủ tục đơn giản và thuận tiện nhất cho người dân và công tác quản lí. Đối với những loại hàng hoá, dịch vụ liên quan vệ sinh an toàn thực phẩm và môi trường, cần phải đảm bảo các yêu cầu này như một điều kiện kinh doanh bắt buộc. Do tính chất phức tạp của hoạt động bán hàng rong, để đáp ứng yêu cầu quản l‎ý, không thể tách rời các biện pháp mà cần phối, kết hợp đồng bộ.
4.3. Tạo mạng lưới phân phối ổn định: hỗ trợ xây dựng các mô hình đặt hàng, bán hàng qua điện thoại và giao hàng tận nơi theo yêu cầu. Hỗ trợ người bán hàng rong từng bước tiếp cận thương mại hiện đại (thương mại điện tử, xúc tiến thương mại, sử dụng truyền thông công cộng để quảng bá sản phẩm, dịch vụ).      
III. KẾT LUẬN:
Quản lý bán hàng rong là một bài toán khó, không chỉ là nhiệm vụ của UBND các phường trong quận Ninh Kiều, lực lượng quản lí thị trường, cảnh sát trật tự mà cần có sự tham gia, phối hợp đồng bộ và hiệu quả của nhiều cơ quan, các cấp chính quyền quận, thành phố. Hơn hết là xây dựng ‎ý thức, trách nhiệm, hành vi và hành động cụ thể từ người bán hàng, người tiêu dùng và toàn xã hội.
Hoạt động bán hàng rong tại quận Ninh Kiều hiện nay vẫn bộc lộ cả 2 mặt, tiêu cực lẫn tích cực của nó. Câu trả lời từ nghiên cứu lí luận và thực tiễn cho thấy, hoạt động này vẫn đang và sẽ còn tồn tại lâu dài ở đô thị trung tâm Tây Đô. Vấn đề quan trọng được rút ra là cần một nhận thức đúng đắn, toàn diện về hiện tượng này và hệ thống chính sách, giải pháp đồng bộ để tạo điều kiện phát triển hoạt động “thương mại đặc thù” trong trật tự, hạn chế tối đa mặt tiêu cực và khai thác tốt nhất yếu tố tích cực của nó.



[1] Hội thảo Khoa học lần 2 đề tài “Phân tích thực trạng bán hàng rong tại quận ninh Kiều, TP. Cần Thơ và đề xuất giải pháp, tổ chức tại Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Cần Thơ ngày 10-8-2013.
[2] Khoản 1, Điều 6-Luật Thương mại 2005: “Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh”, 

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

"Tính cách người Việt theo vùng miền"

Thảo luận về "Văn hoá & tính cách con người Việt theo vùng miền" trên  Trái tim Việt Nam online . Người bắc thường ăn nói nhẹ nhàng, kín đáo, thường hay suy nghĩ sâu xa. Người miền trung thì mọc mạc, chất phác lại hay có tính cục bộ. Người miền nam thì phóng khoáng cởi mở, dễ gần.Dân miền Bắc thường thể hiện mình qua lời nói, trong bất cứ tình huống nào họ cũng đều phải nói cho được. Dân miền Trung thường thể hiện mình qua thái độ, cử chỉ, còn miền Nam thì thể hiện qua phong cách. Nói chung dân Bắc-Trung-Nam đều diễn tuồng cả, cho nên lời nói lúc thì nhẹ nhàng điềm đạm, lúc lại gắt gỏng chua ngoa, thái độ có lúc thì đằm thắm, khi thì thì lại khinh bạc, phong cách thì có lúc phóng khoáng lúc lại dè dặt... Ấn tượng bên ngoài là như thế nhưng có khi bạn cũng thấy là chẳng ai tranh cãi lý luận lại người Trung, thái độ cử chỉ của dân Bắc cũng có thể khiến bạn dè chừng, và lời nói hay thái độ của dân Nam cũng khiến bạn chạy dài... Muốn kiểm chứng thì bạn cứ bỏ ra ...

ART NUDE PHOTOS của Dương Quốc Định

Quên những bộn bề lo toan giá vàng lên xuống, giá lúa, cá tra giảm, chuyện nhà khoa học phải nói dối ... để  ngắm ảnh các em xinh đẹp. Và nếu như kết quả nghiên cứu khoa học của một bà đầm Đức  là khoa học  (không như ta nói dối nhiều quá):  DÒM VÚ PHỤ NỮ TĂNG TUỔI THỌ     (Blog này đã từng có bài, nằm trong nhóm truy cập nhiều nhứt, có lẽ nhiều người đã luyện tập?) thì quý ông cũng nên tập thể dục con mắt một tí nhé. Xin mượn mấy tấm ảnh của nhà nhiếp ảnh Dương Quốc Định làm  dụng cụ luyện tập, ai có điều kiện thì xài hàng thật. Bộ sưu tập những bức ảnh khỏa thân và bán khỏa thân nghệ thuật của nhiếp ảnh gia trẻ Dương Quốc Định. Rất nhiều ảnh trong bộ sưu tập này đã đoạt những giải thưởng quốc tế uy tín. Cảm ơn tác giả đã chia sẻ tác phẩm trên internet. Mời bạn xem qua phần thể hiện bộ sưu tập trên PPS của chúng tôi. Link PPS:  http://vn.360plus.yahoo.com/nns-nguyennamson/article?new=1&mid=112 Chân dung Dương Quốc Địn...

Nhớ Cần Thơ phố

Trần Hữu Hiệp B áo Dân Việt So với Thăng Long - Hà Nội ngàn năm văn hiến, cố đô Huế trầm tư hay Sài Gòn phố nhộn nhịp, thì Cần Thơ phố mang đậm đặc trưng sông nước miệt vườn. Nơi đó, hàng ngày, người Tây Đô vẫn đang sống cuộc đời bình dị. Nhớ thời học phổ thông, nhà tôi chỉ cách trung tâm Cần Thơ 20 Km, nhưng mãi đến năm 15 tuổi, lần đầu tiên mới được đến Cần Thơ cùng đội học sinh giỏi của Trường cấp III Ô Môn dự thi. Đêm, mấy thằng nhà quê lang thang, lạc đường trên phố Hòa Bình, thời đó là một  đại lộ mênh mông trong mắt nhìn bọn trẻ nhà quê chúng tôi. Ký ức Cần Thơ phố trong tôi một thời còn vang qua giọng ngâm của ai trong đêm tĩnh lặng nơi con hẻm nhỏ, bài thơ Tình trắng của Kiên Giang – Hà Huy Hà: “Cần Thơ, ơi hỡi Cần Thơ/Bóng dáng ngày xanh phủ bụi mờ/Ai nhặt giùm tôi bao kỷ niệm” … Và thơ tôi, tuổi học trò: “Ai đặt tên em tự bao giờ/Người đời hai tiếng gọi Cần Thơ/Mỗi lúc đi xa ta nhớ quá/Gặp lại hình em tron...