Trần Hữu
Hiệp
ĐBSCL là một trong số ít vùng trên thế
giới có lợi thế đặc biệt về sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế biển,
một trung tâm sản xuất hàng hóa lớn trong chuỗi cung ứng nông sản toàn cầu.
Cảng Dương Đông, Phú Quốc |
Vị thế địa - kinh tế - chiến lược chưa
được chú trọng
Về phát triển kinh tế biển, vùng ĐBSCL
có 2 lợi thế quan trọng. Thứ nhất là tiềm năng tự nhiên (lợi thế tĩnh) với bờ
biển dài chiếm 23% bờ biển cả nước, diện tích lãnh hải thuộc chủ quyền rộng,
tài nguyên, nguồn lợi tự nhiên phong phú, đa dạng (thủy sản, khoáng sản, dầu
khí, cảnh quan biển, đảo…).
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có diện
tích gần 40 nghìn km2, dân số khoảng 18 triệu người, có hơn 340km đường biên
giới trên bộ giáp Campuchia, là khu vực duy nhất của cả nước tiếp giáp biển
Đông và biển Tây với bờ biển dài 750km, chiếm 23% chiều dài bờ biển cả nước;
hơn 360 ngàn km2 vùng biển và đặc quyền kinh tế, có gần 200 đảo và quần đảo,
đặc biệt là đảo Phú Quốc lớn nhất Việt Nam.
Thứ hai là có vị trí địa - kinh tế và
địa - chiến lược (lợi thế động) do vùng này nằm gần tuyến hàng hải Đông - Tây,
hiện diện nhiều nền kinh tế lớn của thế giới (mà hầu hết đều tham gia APEC), là
một cửa ngõ quan trọng xét trên nhiều mặt, nhất là trong thời đại bùng nổ phát
triển của châu Á – Thái Bình Dương.
Không gian phát triển của ĐBSCL không bó
hẹp trong đất liền, mà mở ra trong một không gian biển rộng lớn, kết nối với
một ASEAN năng động với 600 triệu dân, trong đó ĐBSCL là tâm điểm của bán kính
500 km nối liền các thành phố lớn trong khu vực.
Ngoài biển Đông, ĐBSCL có tiềm năng kinh
tế biển Tây với điều kiện tự nhiên thuận lợi, không bị gió bão, có “hòn ngọc
quốc gia Phú Quốc” gắn với vịnh Thái Lan, đang tạo ra thế “địa kinh tế - quân
sự” mới. Hành lang ven biển vịnh Thái Lan dọc tuyến qua các tỉnh Chanthaburi,
Trat (Thái Lan) qua các tỉnh Koh Kong, TP Kép, Shihanouk Ville, Kam Pot
(Campuchia), rồi đến Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau. Hành lang biển và hướng mở
biển Tây đang mở ra một cánh cửa mới cho vùng ĐBSCL.
Mặc dù lợi thế thứ 2 - “tiềm năng động”
ngày càng quan trọng trong xu thế vừa tăng cường liên kết, hợp tác, vừa xung
đột lợi ích về biển trong khu vực và trên thế giới; nhưng ĐBSCL mới được đầu tư
khai thác lợi thế thứ nhất. Chủ yếu là ngành kinh tế thuỷ sản, bước đầu có quan
tâm đầu tư một số cảng, khí – điện.
Như trong hai ngành xuất khẩu chủ lực
của nước ta là dầu khí và thủy sản, đạt kim ngạch nhiều tỷ USD/năm, thì ĐBSCL
đóng góp quan trọng với 52% sản lượng, khoảng 66% kim ngạch xuất khẩu thủy sản
của cả nước.
Nhưng nhìn chung kinh tế biển, nhất là
các khu kinh tế ven biển, vận tải biển và dịch vụ, du lịch biển, đảo ở ĐBSCL
còn ở trình độ thấp; đặc biệt là công tác qui hoạch yếu, điều tra cơ bản, phát
triển khoa học – công nghệ biển, phòng chống thiên tai, ứng phó biến đổi khí
hậu, nước biển dâng chưa đạt yêu cầu.
“Lợi thế tĩnh” hay “lợi thế động” trong
điều kiện hợp tác và cạnh tranh, chỉ được phát huy thành hiện thực khi nó được
đầu tư, khai thác có hiệu quả trong một chiến lược kinh tế biển hợp lý của
vùng, gắn bó máu thịt với chiến lược chung cả nước.
Giải bài toán “Ba thách thức”
Trước những thách thức chung, vùng ĐBSCL
còn nổi lên 3 thách thức lớn. Một là, từ hiện trạng cho thấy,
cách tiếp cận phát triển kinh tế biển của ĐBSCL thời gian qua chủ yếu dựa vào
tư duy, cách làm của kinh tế nông nghiệp truyền thống. Trong khi vẫn chưa giải
quyết được căn cơ mối quan hệ giữa phát huy lợi thế bậc nhất về nông nghiệp
(sản xuất lúa gạo, thuỷ sản, trái cây) với kinh tế biển (vận tải biển, hậu cần
logistic, du lịch biển, đảo, phát triển kinh tế biển để khai thác lợi thế và phục
vụ nông nghiệp…).
Hai là, vấn đề qui hoạch, tổ chức không gian
phát triển và đầu tư còn hạn chế. ĐBSCL là vùng giàu tiềm năng, nhưng nguồn lực
đầu tư, đặc biệt là từ ngân sách và doanh nghiệp thấp, nội lực cho đầu tư phát
triển thấp. Tài nguyên, nguồn lợi tự nhiên từ biển chủ yếu được khai thác từ
“những cái sẵn có”, nhiều rủi ro, trình độ công nghệ thấp, hạ tầng yếu kém,
thiếu liên kết vùng.
Ba là, thách thức trước biến đổi khí hậu, nước
biển dâng và yều tố “cạnh tranh phát triển” ở biển Tây, trong khu vực vịnh Thái
Lan và biển Đông – ĐBSCL. Đặc biệt yếu tố biến đổi khí hậu, nước biển dâng tàn
phá khu vực ven biển và tình trạng xâm nhập mặn đang diễn ra ngày càng khốc
liệt hiện nay.
Trong một tương lai còn xa, người đồng
bằng vẫn phải tiếp tục gánh vác nhiệm vụ thiêng liêng đối với quốc gia là đảo
bảo an ninh lương thực, nhưng ĐBSCL cũng có quyền và có khả năng để mở rộng
cánh cửa phát triển vươn ra biển lớn, vượt lên “dấu chân” của nền nông nghiệp
truyền thống để làm giàu từ biển.
Không gian phát triển mới, cách tiếp cận
mới, khác căn bản cách tiếp cận phát triển kinh tế “đất liền”. Tái cấu trúc mô
hình tăng trưởng vùng kinh tế nông nghiệp này, cũng cần phải đặt ra việc kinh
tế biển nằm ở đâu và như thế nào. Kinh tế biển ĐBSCL cần được đầu tư, khai thác
gắn với chiến lược kinh tế biển của nước ta để ĐBSCL không chỉ là vựa lúa, trái
cây mà còn là vùng mạnh về biển.
Thực tế đang đòi hỏi, cần có một Chiến
lược kinh tế biển của cùng ĐBSCL, gắn bó máu thịt với cả nước hơn là những
chương trình hành động riêng lẻ của từng địa phương, thiếu liên kết nội vùng và
liên vùng.
Vùng ĐBSCL rất cần có cơ chế tổ chức
liên kết vùng trong qui hoạch đầu tư phát triển, liên kết các ngành kinh tế
biển, liên kết thị trường hiệu quả. Chính phủ cần ban hành cơ chế pháp lý tăng
cường liên kết, hợp tác theo nhu cầu và thực chất hơn các hình thức ký kết hợp
tác kinh tế giữa chính quyền các tỉnh, thành với nhau thời gian quan chủ yếu
mang tính cam kết, còn nặng hình thức và theo phong trào.
Từ các hình thức “liên kết nhà nước”
giữa các chính quyền địa phương với nhau và với các bộ, ngành, cần chuyển sang
chủ yếu liên kết doanh nghiệp, liên kết thị trường dựa trên nền tảng lợi ích.
Nhận xét
Đăng nhận xét