TS. Trần Hữu Hiệp
(TBKTSG) - Trung tâm Phát triển sáng tạo
xanh (GreenID) vừa công bố báo cáo nghiên cứu “Mô hình sử dụng kết hợp năng
lượng mặt trời trong sản xuất nông nghiệp: Kinh nghiệm quốc tế và tiềm năng cho
Việt Nam” mang tính gợi mở, giải quyết xung đột sử dụng đất cho việc phát triển
năng lượng tái tạo và nông nghiệp, thủy sản.
Mô hình điện mặt trời trên đảo Bé, huyện
đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi.Ảnh: M.L
Xung đột từ hai thế mạnh
Tiềm năng phát triển năng lượng tái tạo,
nhất là điện mặt trời, điện gió của Việt Nam rất lớn. Theo quy hoạch điện VII
(điều chỉnh) được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 428/QĐ-TTg ngày
18-3-2016, công suất điện gió nước ta năm 2020 sẽ đạt 800 MW, năm 2025 là 2.000
MW và năm 2030 là 6.000 MW; tổng công suất điện mặt trời năm 2020 đạt 850 MW,
năm 2025 đạt 4.000 MW và năm 2030 là 12.000 MW. Tuy nhiên, nhờ công nghệ năng
lượng phát triển nhanh chóng, suất đầu tư cho năng lượng tái tạo giảm nhanh, giá
thành sản xuất điện gió đã giảm 23% trong bảy năm qua và dự báo còn tiếp tục
giảm sâu, trở nên rất cạnh tranh từ năm 2020.
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng
trọng điểm nông nghiệp, thủy sản của cả nước, cũng là vùng có tiềm năng to lớn
trong bản đồ năng lượng tái tạo quốc gia. Theo nghiên cứu của Tổ chức Phát
triển Đức, tiềm năng tổng công suất điện mặt trời vùng này có thể lên tới
136.275 MW, điện lượng ước tính 216,5 tỉ kWh/năm, nhiều gấp đôi so với 108 tỉ
kWh/năm của 14 nhà máy nhiệt điện than dự kiến xây dựng trong vùng.
Theo quy hoạch điện gió của Bộ Công
Thương, chỉ tại riêng năm tỉnh ven biển của ĐBSCL là Bến Tre, Trà Vinh, Sóc
Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau, tổng công suất tiềm năng điện gió đến năm 2020 là
1.272 MW và đến năm 2050 là 10.712 MW, cao hơn nhiều so với tổng công suất tiềm
năng điện gió cả nước theo quy hoạch điện VII (điều chỉnh).
Hàng loạt dự án điện gió trong vùng được
đầu tư, khởi công, cấp phép như: Nhà máy Điện gió Bạc Liêu 1 và 2 đã hoàn
thành; Nhà máy Điện gió Bạc Liêu 3, Nhà máy Điện gió Khai Long - Cà Mau, Nhà
máy Điện gió Hàn Quốc - Trà Vinh, Nhà máy Điện gió Bình Đại - Bến Tre đã khởi
công; và các dự án điện gió Duyên Hải, Trà Vinh, thỏa thuận hợp tác điện gió
Phú Cường, Sóc Trăng đã được cấp phép đầu tư...
Trên cả nước, theo Bộ Công Thương, đến
giữa năm 2018, bộ này đã nhận được đề xuất bổ sung quy hoạch của UBND các tỉnh
tổng cộng 285 dự án điện mặt trời với tổng công suất gần 23.000 MW, sử dụng
27.600 héc ta đất. Có đến 70% dự án trong số này dự kiến triển khai ở năm tỉnh
phía Nam, nhiều nhất là khu vực ĐBSCL, làm nảy sinh xung đột gay gắt trong sử
dụng đất ở các khu vực nông nghiệp, nông thôn. Đã có những thảo luận về ý tưởng
kết hợp phát triển nông nghiệp và điện mặt trời từ phía chính quyền, các chuyên
gia và nhà đầu tư qua sự kiện Tuần lễ Năng lượng tái tạo Việt Nam trong nhiều
năm, nhưng chưa có một mô hình khả thi nào được triển khai cho mục tiêu trên.
Hai trong một - Tại sao không?
Kết quả nghiên cứu mô hình kết hợp tại
thành phố Cần Thơ của GreenID được thực hiện bởi nhóm chuyên gia năng lượng
quốc tế và trong nước dưới sự tài trợ của Tổ chức Rosa Luxemburg Stiftung (trụ
sở ở Berlin, Đức) là một gợi mở về cách giải quyết xung đột đó, vừa khai thác
được tiềm năng to lớn của năng lượng tái tạo, vừa tránh tổn thương cho ngành
kinh tế truyền thống vốn là thế mạnh của vùng. Mô hình là gợi ý có giá trị cho
các địa phương vùng ĐBSCL, là nguồn tham khảo quan trọng cho các cơ quan nghiên
cứu, quy hoạch điện, hoạch định cơ chế, chính sách phát triển năng lượng theo
hướng bền vững; đặc biệt trong bối cảnh Thủ tướng Chính phủ đang chỉ đạo triển
khai lập quy hoạch điện lực VIII thay thế, sửa đổi, bổ sung, khắc phục những
bất cập của bản quy hoạch điện lực VII và điện lực VII điều chỉnh.
Xung đột từ hai thế mạnh của vùng ĐBSCL là
nông nghiệp, thủy sản và năng lượng tái tạo đang đặt ra câu hỏi cần lời giải là
tại sao không sử dụng đồng thời một diện tích đất cho hai mục tiêu năng lượng
và nông nghiệp, thủy sản?
Mô hình này đã được nghiên cứu triển khai
gần 30 năm qua ở một số nước như Đức, Nhật, Pháp, Hàn Quốc, Ấn Độ..., mở ra
hướng đi mới. Đó là việc sử dụng đồng thời cùng một diện tích đất cho sản xuất
năng lượng mặt trời và nông nghiệp, thủy sản để giảm xung đột sử dụng tài
nguyên đất, đem lại lợi ích kinh tế - xã hội so với sản xuất đơn lẻ.
Kết quả nghiên cứu điển hình tại thành phố
Cần Thơ xác định chín loại cây trồng, vật nuôi có thể phát triển kết hợp nhằm
thực hiện mục tiêu trên là: cây lúa, bắp, đậu nành, mè, rau, khoai mì, gia
súc/gia cầm, cá và tôm. Nếu ứng dụng trên cả khu vực trồng lúa, mô hình này có
thể sản xuất lượng điện sạch gấp 5-7 lần nhu cầu tiêu thụ điện của Cần Thơ. Còn
nếu loại bỏ khu vực trồng lúa, thì mô hình này vẫn có khả năng đáp ứng 40-70%
nhu cầu điện hàng năm của thành phố.
Lợi ích hàng đầu của mô hình này là tạo ra
“nguồn thu kép”cho nông dân bằng việc bán điện mặt trời cho lưới điện quốc gia
và chủ động nguồn năng lượng tại chỗ cho sản xuất nông nghiệp, thủy sản. Điện
mặt trời có thể ứng dụng để thắp sáng vuông tôm, ao cá, vườn cây thanh long;
hoặc sử dụng cho các công cụ cơ điện hay vận tải thủy nội bộ; dùng làm điện
tiêu dùng cho hộ gia đình, trang trại; kiểm soát nhiệt độ nước hiệu quả hơn,
giảm tình trạng bốc hơi nước, ức chế rong tảo sinh sôi... Nhờ đó, nông dân có
cơ hội cải tiến phương thức sản xuất và cuối cùng là giảm xung đột sử dụng đất
với các nhà đầu tư điện. Mô hình kết hợp này tại Cần Thơ có thể góp phần giảm
phát thải carbon từ 8-13 triệu tấn/năm.
Nhân rộng mô hình
Nghiên cứu giả định rằng chỉ 10% tiềm năng kỹ thuật nói trên được hiện
thực hóa, thì với tổng diện tích 3,8 triệu héc ta trồng bắp, khoai mì, khoai
lang và thủy sản hiện nay, mô hình này có thể đạt công suất 12,5 GW điện sạch.
Công suất này sẽ tạo ra gần 16.000 GWh/năm (theo công suất điện mặt trời trung
bình của tất cả các khu vực ở Việt Nam). Sản lượng này tương đương 8% tổng nhu
cầu tiêu thụ điện năng của Việt Nam trong năm 2017 (Viện Năng lượng, 2018).
Tính toán tương tự theo kịch bản chỉ tính
đến các khu vực trồng lúa (năm 2017 chiếm 7,7 triệu héc ta), thì tiềm năng sản
xuất điện sẽ đạt 32.000 GWh, tương đương hơn 15% tổng nhu cầu tiêu thụ điện
năng hiện nay. Nếu kết hợp các khu vực sản xuất nông nghiệp nói trên thì lượng
điện tạo ra sẽ đáp ứng 25% nhu cầu tiêu thụ năng lượng hiện nay.
Kết quả nghiên cứu mô hình kết hợp có ý
nghĩa quan trọng trong bối cảnh chuyển đổi năng lượng ở Việt Nam nói chung và
vùng ĐBSCL nói riêng. Song, vẫn còn những “khoảng trống” cần được tiếp tục giải
quyết. Nghiên cứu dựa trên kinh nghiệm thành công của các quốc gia, nhưng bối
cảnh Việt Nam lại khác. Chúng ta chưa có thị trường điện cạnh tranh, trong khi
chế độ sở hữu đất đai, trình độ công nghệ, giá thành sản xuất nông nghiệp, năng
lượng cũng khác. Những điểm nghẽn cần khơi thông khi nhân rộng mô hình chính là
các thách thức về thể chế pháp luật đất đai, xung đột về quyền sử dụng đất,
giao đất, thu hồi đất, đền bù, giải phóng mặt bằng, tư duy tiếp cận và chọn lựa
các nguồn năng lượng, những hiểu lầm về năng lượng tái tạo và nhiệt điện than.
Những khác biệt đó cần được làm mới bằng cải cách thể chế, đổi mới công nghệ và
nâng cao năng lực ứng dụng.
Nhóm tác giả cũng chỉ ra rằng để phát
triển mô hình này ở cấp vùng, cần thành lập một tổ chức điều phối. Trên cơ sở
đó xây dựng một dự án thí điểm để thử nghiệm các giả định trên, kiểm chứng tính
phù hợp của các cây trồng, con giống tiềm năng. Dự án thí điểm cần được giám
sát khoa học chặt chẽ, đặc biệt là về khía cạnh nông nghiệp. Sự tham gia của
các viện, trường, các chuyên gia, đối tác công nghệ là chìa khóa chủ chốt giúp
đảm bảo thành công cho dự án.
Nhận xét
Đăng nhận xét