§
TS TRẦN HỮU
HIỆP
TTCT - Chuyện
Chính phủ phải “giải cứu” lúa gạo ở ĐBSCL và “cơn sốt” ưa thích giống lúa
Jasmine 85 của VN trên đất Thái thu hút sự quan tâm của nhiều người, thật ra
cũng là… chuyện cũ. Một câu hỏi cũ cho ngành lúa gạo chưa có lời giải mới: Bao
giờ cung gặp cầu?
“Lệch pha” là
đổ thừa
nông dân
Thị trường cần
loại nào, lúa thường, chất lượng cao, hay lúa hữu cơ... thì chọn loại giống đó
và sản xuất theo quy trình để đảm bảo cung cấp đủ chất, đủ lượng đáp ứng nhu
cầu khách hàng. Yêu cầu đơn giản đó ai cũng biết, nông dân (ND) cũng biết.
Nhưng tại sao ND vẫn rơi vào tình trạng “lệch pha” trong sản xuất?
Chọn giống lúa
nào tưởng dễ, hóa ra là câu hỏi khó cho bà con. Trách ND “nói hoài không nghe”,
nhưng người trồng lúa nghe theo khuyến cáo của chính quyền phải chịu thua
thiệt. Thực tế vừa qua, nhiều ND đã chuyển sang trồng lúa chất lượng cao, có
địa phương đạt hơn 70% diện tích canh tác. Trớ trêu là lúa chất lượng cao bị
“cào giá” như chất lượng thấp, thương lái không mua.
Yêu cầu sản
xuất phải kết nối với thị trường là vấn đề khó, “vượt tầm” của ND. ND cần “cung
hàng sỉ” ổn định lâu dài hơn là “cấp hàng lẻ” nhất thời. ND cần thông tin thiết
thực để tổ chức sản xuất bắt đúng “tần số tín hiệu thị trường” hơn là những kêu
gọi chung chung. Xét góc độ này thì nhiều cơ quan chưa làm tốt, chưa làm đúng
vai đã tạo ra sự “lệch pha” cung - cầu chứ đừng chỉ đổ thừa cho ND.
Nghị định
107/2018/NĐ-CP quy định: Bộ NN&PTNT chủ trì, phối hợp thực hiện cân đối nhu
cầu tiêu dùng gạo trong nước, công bố vào quý 4 hằng năm. Bộ Tài chính công bố
giá lúa định hướng ngay từ đầu vụ để làm cơ sở áp dụng các biện pháp bình ổn
giá lúa, gạo hàng hóa trên thị trường.
UBND cấp tỉnh
công bố giá thành sản xuất lúa bình quân dự tính trong toàn tỉnh ngay từ đầu vụ
đối với từng vụ sản xuất trong năm. Vậy mà có cơ quan nào làm thông suốt? ND
làm sao tiếp cận được thông tin lúa gạo để tổ chức sản xuất theo “tín hiệu thị
trường”, chọn phân khúc gạo nào để đảm bảo cung - cầu?
Câu chuyện
“những bàn tay thô ráp quẹt Zalo”, ND “ứng dụng điện toán đám mây” để trồng lúa
bằng cách đo độ mặn, điều khiển hệ thống bơm, thoát nước bằng smartphone không
còn là chuyện lạ. Điều đó cho thấy ND có thể tiếp cận rất nhanh với công nghệ
mới và cách làm mới.
Tập đoàn Rynan
Holdings JSC ở Trà Vinh đã đầu tư hệ thống trạm quan trắc nước, xử lý thông
tin, cung cấp cho ND bộ công cụ “làm nông bằng điện thoại”. Tập đoàn Lộc Trời
cũng đã tích hợp dữ liệu, ứng dụng viễn thám địa lý giúp ND An Giang và nhiều
địa bàn vùng nguyên liệu của tập đoàn nắm bắt thông tin đồng áng qua điện thoại
thông minh mà không cần phải ra đồng.
Song, ND vẫn
đang rất cần sự dẫn dắt của nhà đầu tư, doanh nghiệp, sự hỗ trợ của nhà khoa
học và kiến tạo của Nhà nước để tìm mới trong câu chuyện cũ. Thiếu một đảm bảo
chắc chắn cho chất lượng gạo, thương hiệu gạo, sản xuất lúa trong điều kiện mù
thông tin thị trường, chưa biết bán cho ai chính là cái vòng luẩn quẩn của ND
đi tìm giá trị mới trong câu chuyện cũ.
Không còn một
sản phẩm cho mọi người dùng
Hằng năm, chúng
ta sản xuất khoảng 44 triệu tấn lúa, tương đương 22 triệu tấn gạo. Xuất khẩu
khoảng 6 triệu tấn, chỉ chiếm hơn 27%, còn lại 16 triệu tấn tiêu dùng trong
nước, chiếm gần 2,7 lần gạo xuất. Vì vậy, việc định ra các phân khúc thị trường
tiêu thụ cho từng chủng loại gạo là rất quan trọng. Gạo xuất khẩu đã chiếm
khoảng 18-20% thị phần gạo thế giới, yêu cầu về giống tốt, có thương hiệu, phẩm
cấp đạt yêu cầu.
Trong khi thị
trường gạo nội địa với hơn 94 triệu người dùng, dù ăn cơm ít hơn nhưng đang đòi
hỏi chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm ngày càng cao hơn. Người dùng gạo
trong nước cần được đáp ứng đúng nhu cầu, phải có công cụ truy xuất nguồn gốc,
bảo vệ các thương hiệu gạo uy tín, chất lượng.
Ngoài gạo cho
bữa cơm hằng ngày của mỗi gia đình, nhu cầu gạo nguyên liệu cho hàng loạt ngành
công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm và các sản phẩm sau gạo khác đang
ngày càng lớn hơn. Những “tín hiệu thị trường này” phải đến được ruộng lúa của
người ND. Thời buổi lúa gạo cạnh tranh, không còn một sản phẩm cho mọi người
dùng.
Nghiên cứu, sản
xuất các giống lúa có năng suất, chất lượng, giá trị cao thuộc công nghệ sinh
học, nhưng không chỉ là vấn đề kỹ thuật mà nó cần được gắn với hệ thống ngành
hàng lúa gạo từ khâu giống đến quy hoạch, tổ chức sản xuất, chế biến, bảo quản
và tiêu thụ, phát triển công nghệ sau gạo.
Vì vậy, cần
tăng cường năng lực hợp tác nghiên cứu khoa học, đưa các công nghệ mới vào tất
cả các khâu: sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến, vận chuyển và tiêu thụ
sản phẩm. Đó cũng là việc đi tìm giá trị mới trong câu chuyện cũ.
Ngành lúa gạo
nước ta phải vượt qua dấu chân lấm bùn của kinh tế tự nhiên, kinh nghiệm nông
nghiệp truyền thống để bước sang kinh tế tri thức, tham gia vào chuỗi giá trị
công nghiệp sáng tạo toàn cầu.
Gạo Việt đang
rất cần trợ lực và sức bật mới từ các ngành “công nghiệp phụ trợ”. Đó có thể là
các ngành công nghiệp mới sau lúa gạo có giá trị gia tăng cao như thực phẩm
tiêu dùng (dầu ăn, sữa gạo, thức uống dinh dưỡng...), vật liệu (đánh bóng kim
loại), sơn (nano chống cháy), ngành dược, mỹ phẩm, ngành công nghiệp sản xuất
thức ăn chăn nuôi, thủy sản.
“Chiến dịch
giải cứu lúa” mà nhiều nơi đang làm là cần, nhưng chỉ mang tính đối phó mùa vụ.
Bà con ND đang cần tập hợp lại cùng với các doanh nghiệp đủ mạnh phát triển sản
xuất theo các chuỗi giá trị được quản lý từ đầu vào đến đầu ra. Phải kiểm soát
được tiêu chuẩn chất lượng gạo từ sản xuất, chế biến đến các kênh phân phối
bằng pháp luật và chất lượng quản lý.
Nâng cao sức
cạnh tranh, định chuẩn giống lúa, đảm bảo chất lượng gạo và xác định đúng phân
khúc thị trường đầu ra cho hạt gạo để các yêu cầu này tác động trở lại từ đầu
vào đến đầu ra trong toàn bộ chuỗi giá trị gạo Việt và mở ra một không gian
phát triển mới cho các sản phẩm sau gạo. Đó chính là chuyện tìm giá trị mới
trong câu chuyện cũ.■
Ông Lê Minh Hoan
(bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp):
Cần liên kết lại
để thôi “giải cứu” lúa
Để thôi “giải
cứu” ngành hàng lúa gạo, cần liên kết lại ở toàn chuỗi ngành hàng gồm cả khâu
sản xuất, chế biến và thị trường... ND hiện nay chỉ sản xuất theo kiểu thấy
giá lúa nào cao thì tự động “bung thêm” diện tích hoặc thương lái gợi ý, mà
thương lái gợi ý đôi khi lại dựa vào tín hiệu của doanh nghiệp.
Tư duy của
nhà quản lý đôi khi cũng lấy đó làm thành tích đánh giá sự tăng trưởng. Vì
vậy, muốn có quy hoạch tương đối ổn định thì cần nắm bắt đầy đủ thông tin về
yêu cầu của thị trường.
Sản xuất theo
nhu cầu của thị trường là tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Nhưng trách
ND không sản xuất theo thị trường là không công bằng. Trong khi cả đội ngũ
phân tích thị trường trong các cơ quan chuyên ngành, các doanh nghiệp còn
lúng túng, thậm chí thông tin còn bị méo mó do lợi ích cục bộ, thì sao quay
lại trách ND. Ngay cả dự báo thị trường trong mỗi mùa vụ, mỗi quốc gia nhập
khẩu là chính xác nhưng vẫn có thể thay đổi ngay vụ sau.
Thị trường
“trăm người bán vạn người mua” khó có thể phân tích. Khi có kết quả phân tích
thì làm sao đưa thông tin đó đến ND? Nhiệm vụ cung cấp thông tin một cách đầy
đủ nhất, kịp thời nhất là của các cơ quan nhà nước chuyên ngành, sau đó ND sẽ
quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
Ngoài ra, các
viện trường, doanh nghiệp nghiên cứu sản xuất giống, doanh nghiệp tiêu thụ và
xuất khẩu cần liên kết lại như những thành phần trong chuỗi ngành hàng lúa
gạo. Có như vậy mới gắn kết các kết quả nghiên cứu sát và kịp thời với yêu
cầu của thị trường.
|
GS Bùi Chí Bửu (nguyên viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL):
Thêm nhiều sản phẩm giá trị gia tăng từ gạo
Các sản phẩm
giá trị gia tăng từ gạo hiện chưa được làm tốt. Sản xuất với số lượng quá lớn
và chỉ chăm bẳm vào thị trường xuất khẩu, đến khi thị trường “tắc” là việc
sản xuất lúa gạo có vấn đề ngay. Chưa nói đến việc sản xuất với số lượng quá
lớn (vụ đông xuân khoảng 11-12 triệu tấn), ngay cả thu hoạch đồng loạt đã
không có chỗ chứa (cả ĐBSCL năng lực chứa chỉ khoảng 4 triệu tấn).
Trong khi đó
việc chế biến ra các sản phẩm sau thu hoạch là cách mà Hàn Quốc đã làm rất
tốt như chế biến sữa gạo và nhiều sản phẩm khác. Chính phủ cần có chương
trình hỗ trợ cho nghiên cứu sau thu hoạch. Mình không có thế mạnh về lúa thơm
so với Thái Lan và Campuchia mà có thế mạnh đưa giống chuyển qua hướng phẩm
chất dinh dưỡng dành cho người bị tiểu đường, bệnh huyết áp. Cần có định
hướng nghiên cứu sản xuất giống theo hướng này. Mình cần chủ động đi vào một
hướng tìm sự khác biệt.
Trước khi làm
được những vấn đề trên, về giải pháp kỹ thuật có thể làm giảm giá thành sản
xuất lúa ở ĐBSCL do sạ quá dày và phân thuốc phòng trị sâu bệnh quá lớn
(khuyến cáo chỉ 400 - 600kg phân vô cơ/ha, nhưng ĐBSCL dùng tới 1,1 tấn/ha).
Tuy nhiên, muốn làm được việc này thì phải làm được câu chuyện liên kết doanh
nghiệp với ND để ND buộc phải sản xuất theo quy trình do doanh nghiệp đặt ra.
CHÍ QUỐC ghi
|
Nhận xét
Đăng nhận xét