Trao đổi về bài trả lời của Trần Ngọc Thêm với cuốn 'Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ'
(Thethaovanhoa.vn) - LTS: Sau bài viết của tác giả
Nguyễn Thanh Lợi nhan đề Cuốn sách Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ tái bản vẫn quá nhiều sai
sót trên báo Thể thao & Văn hóangày 9/7/2014,
GS Trần Ngọc Thêm đã có bài trả lời trên báo ngày 23/7/2014. Tác giả Nguyễn
Thanh Lợi lại tiếp tục có thêm bài trao đổi. Báo Thể thao & Văn hóa xin
giới thiệu bài viết mới này trên ấn bản điện tử.
1. Về
giường thờ, Trần Ngọc Thêm dẫn sách Nói về miền Nam của Sơn Nam: "Ở
miền quê, quen gọi “cái giường thờ”, vì như đã nói ở phần trước, lấy cái giường
ngủ của người quá cố đem ra thờ (như khi còn sống)... Cái giường, vì nhu cầu
thâu hẹp, lần hồi được thay thế với cái bàn thấp, đặt sát vách, khi làm đám
giỗ, thức ăn trưng bày trên đó” và như vậy Trần Ngọc Thêm vẫn cho rằng: “Giường
thờ thực sự (mà người chết đã nằm) ở Tây Nam Bộ hiện nay thường chỉ thấy ở một
số ngôi nhà cổ”. Có thật vậy không?
Sách Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh
Của xuất bản từ năm 1895 ở mục từ Giầng tức Giường: “Giường thờ sắm riêng để
thờ ông bà” (tập 1, tr.370). Điều Huỳnh Tịnh Của đưa ra là có cổ hơn so với
điều Sơn Nam. Và chính Sơn Nam cũng đã lại viết: “Giường thờ và bàn thờ là hai
món riêng, gắn bó hữu cơ. Bàn thờ ở phía ngoài nhìn vào, khá cao, chưng bộ lư,
chân đèn, lư cắm nhang, chén cúng nước, tô đựng nước (để súc miệng trước khi ăn
trầu, để uống trà Huế)...Giường thờ thấp hơn, nối liền từ bàn thờ đến sát vách
buồng, trên giường đặt vài món kỷ niệm của người quá cố (quạt, gối) nhưng công
dụng chánh của giường này là bày biện thức ăn khi cúng giỗ...(Đồng bằng sông
Cửu Long nét sinh hoạt xưa, NXB TP.HCM, 1985, tr.121). Như vậy là đã rõ.
Cuốn Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ (năm 2014) |
Lại nữa, Trần Ngọc Thêm
còn viết: “Về Huế, ta vẫn thấy những chiếc long sàng của vua chúa đã qua sử
dụng được đặt thờ trong các khu lăng tẩm”. Các long sàng đó, nếu có, cũng chỉ
là tưởng niệm về người quá cố hay hàm ý để vong hồn người chết ngủ nghỉ theo quan
niệm “sự tử như sự tồn”, chứ cái long sàng không phải là bàn thờ/hương án thờ
các vị vua.
2. Về bàn
thờ Thiên, Trần Ngọc Thêm viết trong sách: “Bát nhang tròn đặt trên bàn thờ
vuông, bàn thờ vuông đặt trên cây trụ tròn - tất cả thể hiện từ tưởng có âm có
dương, có vuông có tròn, cầu mong cho cuộc sống hoàn hảo, tốt đẹp” (tr.212).
Trong bài báo thì phản bác ý kiến khi tôi cho rằng các ảnh các cột bàn Thiên
trong sách lại là hình vuông. Trần Ngọc Thêm giải thích là do người bình dân
không hiểu ý nghĩa của phong tục và nay để cho giản tiện thì xây bằng cột gạch
vuông để dễ làm!
Chính thực tế mà Trần Ngọc
Thêm nêu trên là sự thật xưa nay. Người dân làm bàn Thiên chẳng ai căn cứ vào
nguyên lý âm dương gì cả. Cái bàn Thiên đặt giữa sân (hay vị trí nào đó thông
thoáng, cả trên ban công, sân thượng...) để trên thờ Trời dưới thờ Hậu Thổ.
Nghiên cứu là từ thực tế điều tra / quan sát để đưa ra kết luận. Ở đây và cũng
như nhiều hiện tượng khác, cách làm của Trần Ngọc Thêm là bắt đầu từ nguyên lý
âm – dương và sau đó, chọn lựa những gì hợp với chủ ý của mình để chứng
minh/minh họa cho nguyên lý đã định của mình.
Cúng kiếng thì nhang đèn,
hoa trái, trà nước...là lễ vật. Mâm ngũ quả là lễ vật cúng Tổ tiên trong dịp
Tết là một tập tục phổ biến. Còn việc bày mâm ngũ quả lên cúng ở bàn Thiên là
việc cá biệt, là việc làm chưa hề thành phong tục, tập quán. Lấy cái cá biệt để
khái quát chung là không đúng, lấy sự để nói lý là không khoa học.
Nói về bàn Thiên thì đã có nhiều công trình nghiên cứu tỉ
mỉ, giải thích rõ ràng. Chẳng hạn, như Trần Ngọc Thêm nói rằng: “Mọi gia đình
tín đồ Hòa Hảo đều có bàn thờ Thiên” (tr.214). Thật ra, tín đồ Phật giáo Hòa
Hảo rất coi trọng việc lập “bàn Thông Thiên” (chứ không gọi là “bàn thờ Thiên”)
và đối tượng thờ tự ở đây là một tập hợp thần linh đông đúc, cùng với chư Phật,
Bồ Tát (Sấm giảng toàn bộ của Đức Huỳnh giáo chủ, 1964, tr.28,
36-37).
Dẫn ra một ví dụ nhỏ trên,
cốt để chỉ việc nghiên cứu của các tác giả sách này là còn nhiều thiếu
sót và không khoa học.
3. Về hò,
đúng là tôi đã nhầm trong việc đánh đồng “lớp mái” với “mái chèo”. Thành thật
xin lỗi.
4. Về lý, sách viết:”Nói đến diễn xướng dân gian Tây Nam Bộ không
thể không nhắc tới lý. “Lý” nghĩa là “làng”. Lý là một lối hát làng quê, gắn
liền với cuộc sống lao động nơi thôn dã (tr.340).
Rõ ràng đang trong ngữ cảnh nói về diễn xướng dân gian, rồi
xác định “lý là làng” thì phải hiểu là sao?. Lý là làng, là dặm, là cây lý,...
Chuyện đó thì Từ điển Hán Việt nào cũng nói. Ở đây lý là “ca
khúc bình dân” như các nhà nghiên cứu dân ca, dân nhạc đã từng định nghĩa. Khi
được chỉ ra việc “tào lao” thì lại tra từ điển để biện hộ. Sao không đưa câu
trích từĐại Nam quốc âm tự vị vào sách mình cho đúng và có giá trị
chính xác. Đó là chưa nói đến việc nghiên cứu hơi hợt về lý: chỉ tập trung ở
khía cạnh đề tài-nội dung với việc liệt kê tên các điệu lý… là xong. Điều này
cũng cho thấy sự hạn chế trong nghiên cứu.
5. Về múa bóng rỗi, bài báo trả lời vẫn bảo thủ xếp múa bóng rỗi
vào nghi lễ tôn giáo và cho nó diễn ra ở đình làng là đúng.
Tôn giáo là tôn giáo, tín
ngưỡng là tín ngưỡng. Đây lại là tín ngưỡng dân gian. Nói như Trần Ngọc Thêm là
chúng có thể mang tính tôn giáo, chứ không thể đồng nhất tín ngưỡng và tôn giáo
được. Ở đây cũng xác định rõ rằng, hát bóng rỗi (chứ không phải múa bóng rỗi)
là hình thức diễn xướng tổng hợp (ca/hát-nhạc-múa-trò diễn sân khấu) nhằm thực
hành nghi lễ trong các dịp vía Bà (miếu thờ nữ thần) và miếu thờ Thổ Địa. Đó là
tín ngưỡng dân gian.
Đình làng là thiết chế tín
ngưỡng chính thống, mang tính quan phương, thờ thần Thành Hoàng và tế lễ theo
nghi lễ chính thống. Khi cúng đình thì có kiếng (kính) các miễu xung quanh hoặc
ngược lại, khi cúng miễu thì cũng phải kiếng Thành Hoàng. Hát bóng rỗi không có
mặt trong lễ kỳ yên cúng thần ở đình như sách của Trần Ngọc Thêm viết. Trường
hợp Trần Ngọc Thêm dẫn ra ở đình Xuân Lập (Long Khánh, Đồng Nai) cần kiểm tra
lại. Thậm chí nếu có thì đó là trường hợp cá biệt. Không thế lấy cái cá biệt để
khái quát chung. Đây lại là chuyện không nghiêm túc trong khoa học.
Nguyễn Thanh Lợi
Cuốn sách Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ: Tái bản vẫn quá nhiều sai sót
(Thethaovanhoa.vn) - Không phải lần đầu tiên công
luận đề cập tới những sai sót của cuốn sách Văn hóa người Việt vùng Tây
Nam Bộ (đề tài nghiên cứu KHXH - NV trọng điểm của Đại học Quốc gia
TP.HCM, do GS. TSKH Trần Ngọc Thêm làm chủ nhiệm, thực hiện trong hai năm 2009
- 2010 Nxb Văn hóa - Văn nghệ ấn hành năm 2013). Tuy nhiên, đáng tiếc là trong
lần tái bản có sửa chữa năm 2014 này, sách vẫn còn quá nhiều sai sót.
Một cuốn sách đồ sộ về văn hóa Tây Nam Bộ với 889 trang, do
tập thể 16 thành viên ở Khoa Văn hóa học biên soạn lại có quá nhiều sai sót,
hầu như có thể bắt gặp nhan nhản ở nhiều chỗ trong sách, là điều đáng tiếc. Do
khuôn khổ có hạn của một bài báo, tôi chỉ nêu ra một số dẫn chứng.
Khi mô tả chiếc giường thờ ở Nam Bộ xưa (tr.209), sách dám
viết rằng đó là giường mà cha mẹ hay nằm lúc còn sống đặt ngay giữa nhà để thờ.
“Sáng tạo” này quả là hết ý! Giường thờ thường đặt phía sau tủ thờ, khá lớn,
bày thức ăn để cúng những vong hồn tổ tiên ông bà và được đóng riêng chỉ dùng
cho mục đích ấy, nay vẫn còn thấy trong một số gia đình ở Nam Bộ. Bản thân
giường ngủ đã bị xem là “ô uế” thì làm sao có thể đem ra thờ cúng ông bà được.
Ở trang 212, sách mô tả bàn thờ Thiên (bàn Thông Thiên) là
“bàn thờ vuông đặt trên cây trụ tròn”, nhưng 4 tấm hình minh họa ở trang 213
lại cho thấy toàn là các cột vuông? Và sách còn cho biết thêm là có thể đặt mâm
ngũ quả trên bàn Thiên để cúng dịp tất niên!? (tr.213).
Viết về hò ở Tây Nam Bộ, sách viết: “Trong hò dưới
nước thì lại có: hò mái cụt, hò mái đoản, hò mái dài, hò mái trường,
hò mái ba, hò mái ố, hò ống, hò chèo ghe...”(tr.337). Khái niệm mái trong
hò ở đây nên hiểu là lớp mái, lớp trống chứ không phải là “mái chèo”, mỗi mái
chính là 1 đoạn. Hò mái đoản là hò mái cụt, còn hò mái dài là hò mái trường.
Cũng ở đoạn sách viết về mục đích của hò thì phân biệt hò
lao động, hò giao duyên, hò tôn giáo (?) và hò đưa linh được xếp vào hò tôn
giáo (tr.337-338). Hò đưa linh là hò phong tục nghi lễ, dành cho các nhân quan
và đạo tỳ.
Ở tiểu mục nói về Lý và nói thơ, các tác giả
cuốn sách quả là bạo gan khi dám cắt nghĩa và diễn giải:”Lý” nghĩa là “làng”.
Lý là một lối hát làng quê, gắn liền với cuộc sống nơi thôn dã”(tr.340). Đúng
là trong tiếng Hán, “lý” còn có nghĩa là “làng” nhưng từ “lý” trong tiếng Nôm ở
đây lại chỉ một thể loại âm nhạc dân gian không liên quan gì với nghĩa là
“làng” cả.
Viết về múa bóng rỗi, sách còn dám cho là “hình thức diễn
xướng vừa mang tính nghi lễ tôn giáo”, “gắn với tín ngưỡng thờ thần Thành Hoàng
và được tổ chức trong dịp Lễ hội Kỳ yên diễn ra ở các đình-miếu Tây Nam
Bộ”(tr.346-347). Múa bóng rỗi chỉ gắn với tín ngưỡng thờ nữ thần (năm bà Ngũ
Hành, Chúa Xứ) và chỉ diễn ra ở miếu chứ không hề diễn ra trong đình làng thờ
thần Thành Hoàng.
Qua những dẫn chứng đã
nêu, có thể thấy cuốn sách Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ do
Trần Ngọc Thêm chủ biên sẽ có tác hại như thế nào nếu như người đọc hoàn toàn
tin vào những điều viết trong cuốn sách mà không kiểm chứng lại. Và nó có thực
sự xứng đáng là “sản phẩm của đề tài khoa học cấp trọng điểm Đại học Quốc gia
TP. Hồ Chí Minh”, đã được một giàn hùng hậu các giáo sư trong Hội đồng nghiệm
thu thông qua và thậm chí còn được tặng cho giải thưởng về thành tích nghiên
cứu?!
Ngày 26/12/2013, Đại học Quốc gia TP. HCM tổ chức hội
nghị thường niên năm 2013, Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng là
đơn vị duy nhất ở Trường Đại học Khoa học xã hội & nhân văn TP.
HCM được khen thưởng trong số các đơn vị tập thể thuộc Đại học Quốc
gia TP. HCM vì thành tích khoa học và công nghệ xuất sắc năm học
2012-2013, trong đó có việc xuất bản 2 cuốn sách: Văn hóa
người Việt vùng Tây Nam Bộ, Những vấn đề văn hóa học lý luận và ứng
dụng, đều do Trần Ngọc Thêm chủ biên (Nxb Văn hóa-Văn nghệ, quý II,
2013). Hai cuốn sách này cũng được quảng bá rầm rộ trên các phương
tiện truyền thông. Năm 2014, sách Văn hóa người Việt vùng Tây Nam
Bộđược tái bản có sửa chữa.
|
Nguyễn Thanh Lợi (Nhà nghiên cứu)
Thể thao & Văn hóa
Nhận xét
Đăng nhận xét