Chuyển đến nội dung chính

Kinh tế biển xanh - Nhìn từ Đồng bằng sông Cửu Long


* TRẦN HỮU HIỆP 

ĐBSCL là vùng duy nhất của cả nước tiếp giáp Biển Đông và Biển Tây với bờ biển dài 750 km, chiếm 23% chiều dài bờ biển cả nước; hơn 360 ngàn km2 vùng biển và đặc quyền kinh tế, có gần 200 đảo và quần đảo, đặc biệt là đảo Phú Quốc lớn nhất Việt Nam. ĐBSCL không chỉ là vựa lúa, trái cây, thủy sản của cả nước, một trung tâm sản xuất hàng hóa lớn trong chuỗi cung ứng nông sản toàn cầu, mà còn có tiềm năng kinh tế biển to lớn đang mở ra phía trước.
Đồng bằng liền biển lớn
Vùng ĐBSCL có 2 lợi thế quan trọng để phát triển kinh tế biển. Đó là tiềm năng tự nhiên (lợi thế tĩnh) với bờ biển dài, diện tích lãnh hải thuộc chủ quyền rộng, nguồn lợi tự nhiên phong phú, đa dạng (thủy sản, khoáng sản, dầu khí, cảnh quan biển, đảo). ĐBSCL còn có v trí địa - kinh tế - chiến lược (li thế động) do nm k tuyến hàng hi Đông - Tây, là mt ca ngõ quan trng, sôi động ra bin Đông. Thc hin Ngh quyết Hi ngh ln th tư BCH Trung ương Đảng khóa X về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020; các tỉnh trong vùng ĐBSCL đã xây dựng và triển khai thực hiện các Chương trình hành động phát triển kinh tế biển; bước đầu tạo chuyển biến tích cực. Đất Chín Rồng tiếp tục phát huy thế mạnh thủy sản, du lịch biển, đảo; bước đầu khai thác lợi thế công nghiệp năng lượng khí đin nh được Trung ương đầu tư mt s công trình trng đim trên địa bàn như: Trung tâm khí đin đạm Cà Mau, đường ng dn khí Lô B Ô Môn dài gn 400 km, Trung tâm điện lực Duyên Hải Trà Vinh, đin lc Long Phú Sóc Trăng Mt s khu kinh tế ven bin như Phú Quc Kiên Giang, Định An - Trà Vinh, nhóm cng bin 6 trong vùng cũng được đầu tư, nâng cp, to cơ s cho ngành hu cn logistic. 
Quy hoạch xây dựng vùng ĐBSCL đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2050 đều xác định vai trò của vùng là “trung tâm” lớn trên 4 lĩnh vực: sản xuất lúa gạo, thủy sản; chuyển giao công nghệ sinh học, cung cấp giống, chế biến và xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp; trung tâm năng lượng; trung tâm dịch vụ lớn của cả nước. Trong 2 ngành xuất khẩu chủ lực của nước ta là dầu khí và thủy sản, đạt kim ngạch hàng tỉ USD/năm, thì ĐBSCL đóng góp quan trọng với 52% sản lượng, khoảng 66% kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả nước.
Bên cạnh những thuận lợi, ĐBSCL cũng đang đứng trước nhiều thách thức phát triển kinh tế biển. Đó là cách tiếp cận phát triển kinh tế biển của vùng thời gian qua chủ yếu dựa vào tư duy, cách làm của kinh tế nông nghiệp truyền thống. Trong khi vẫn chưa giải quyết được căn cơ mối quan hệ giữa phát huy lợi thế bậc nhất về nông nghiệp (sản xuất lúa gạo, thủy sản, trái cây) với kinh tế biển (vận tải biển, hậu cần logistic). Thí dụ rõ nhất là hệ thống nhóm cảng biển 6 và luồng, đặc biệt là luồng Định An Sông Hu vn ách tc việc vận tải phục vụ xuất nhập khẩu lượng lớn nông sản và nguyên liệu sản xuất. Du lịch biển, đảo, phát triển kinh tế biển để khai thác lợi thế và phục vụ nông nghiệp còn nhiu hn chế. Mc dù bước đầu được đầu tư h tng cng, công nghip khí đin, nhưng các khu kinh tế ven biển, vận tải biển và dịch vụ, du lịch biển, đảo còn ở trình độ thấp. Công tác qui hoạch yếu, điều tra cơ bản, phát triển khoa học công ngh bin, phòng chng thiên tai, ng phó biến đổi khí hu, nước bin dâng chưa đạt yêu cu. Bên cạnh đó, vấn đề qui hoạch, tổ chức không gian phát triển và đầu tư kinh tế biển cho vùng còn hạn chế. ĐBSCL giàu tiềm năng, nhưng nguồn lực đầu tư, đặc biệt là từ ngân sách và doanh nghiệp thấp; chủ yếu khai thác nguồn lợi tự nhiên sẵn có từ biển, còn nhiều rủi ro, trình độ thấp, thiếu liên kết vùng. Ngoài ra còn những thách thức trước tình trạng biến đổi khí hậu, nước biển dâng và yếu tố “cạnh tranh phát triển” ở biển Tây và biển Đông.
Chiến lược nào cho kinh tế biển xanh ĐBSCL?
Các năm qua, các tỉnh thành trong vùng ĐBSCL, đặc biệt là 7 tỉnh ven biển đã triển khai thực hiện các Chương trình hành động phát triển kinh tế biển, tạo ra chuyển biến tích cực. Song, thực tế đang đòi hỏi cần có một Chiến lược kinh tế biển của ĐBSCL gắn bó máu thịt với cả nước hơn là những chương trình hành động riêng lẻ của từng địa phương.
Liên kết vùng ĐBSCL là đòi hỏi cấp bách từ thực tiễn sôi động của vùng sản xuất hàng hóa nông nghiệp lớn nhất nước, lực lượng nông dân đông đảo nhất, trình độ sản xuất hàng hóa nông nghiệp vào loại bậc nhất cả nước và tiềm năng kinh tế biển đang được mở ra phía trước. Chủ trương liên kết vùng cần một cơ chế pháp lý rõ ràng và mạnh mẽ hơn là sự “khuyến khích” hay các hình thức ký kết hợp tác chung chung giữa chính quyền các tỉnh với nhau thời gian qua. Việc liên kết cần được tổ chức theo cơ chế, mô hình, có phân công, phân vai rõ ràng giữa các địa phương, từ đầu tư các công trình trọng điểm vùng như cảng biển, khu kinh tế ven biển, phát triển kinh tế biển, du lịch biển đảo đến kết nối các công trình đầu tư và phát triển kinh tế biển của các tỉnh, thành, tránh đầu tư dàn trải, lãng phí.
Phát triển kinh tế biển vùng ĐBSCL cần sự tiếp cận chuỗi - hệ thống tổng thể và thể chế, chính sách. Cần được tổ chức triển khai một cách đồng bộ, từ chất lượng và hiệu quả đầu tư, hợp tác quốc tế, vấn đề chủ quyền, đảm bảo quốc phòng an ninh, tăng cường liên kết vùng, liên kết chính quyn, doanh nghip th trường Vi ngun lc có hn, vic la chọn mục tiêu trọng tâm, lựa chọn điểm đột phá, khắc phục tình trạng dàn trải, phân tán trong đầu tư phát triển kinh tế biển, gây lãng phí và kém hiệu quả ... là yêu cầu quan trọng hàng đầu. Bên cạnh đó, cần có cơ chế, chính sách mạnh mẽ hơn cho kinh tế biển ở ĐBSCL bởi cho đến nay, vẫn chưa có gì đặc biệt thoát ra khỏi khung chính sách khuyến khích đầu tư chung, mà điển hình rõ nhất là trường hợp của Phú Quốc. Để phát triển Phú Quốc, tạo “đòn bẩy” cho kinh tế biến của vùng, từ năm 2004, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 178/QĐ-TTg, Phê duyệt Đề án phát triển tổng thể đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020, nhằm phát triển đảo Phú Quốc trở thành khu kinh tế biển đặc thù, một trung tâm giao thương, dịch vụ, du lịch tầm cỡ quốc gia, khu vực và trên thế giới; với cơ chế “được hưởng ưu đãi mức cao nhất trên cả nước được hưởng”. Mặc dù hiệu quả tích cực từ Quyết định 178 là không thể phủ nhận, nhưng qua 8 năm thực hiện, vẫn vướng cơ chế, chính sách, Phú Quốc vẫn không thể thoát ra khỏi “chiếc áo pháp lý cấp huyện” để phát triển. Đầu tư hạ tầng, nhân lực dịch vụ trên đảo vẫn chưa đạt được như kỳ vọng.
Để kinh tế biển ĐBSCL phát triển, cần tiếp tục ưu tiên đầu tư, phát triển đảo Phú Quốc trở thành “đặc khu kinh tế biển mang tầm cỡ quốc tế” như định hướng của Bộ Chính trị. Bên cạnh đó, cần tiếp tục đầu tư “Tứ giác động lực” Cn Thơ Cà Mau Kiên Giang An Giang, gn kết yêu cu phát trin kinh tế nông nghip vi công nghip, kinh tế bin, ng phó biến đổi khí hu và nước bin dâng; có chú ý phát triển hài hòa hành lang ven biển và các đô thị ven biển trong vùng. Phát triển toàn diện ngành hải sản, thành tiểu vùng kinh tế hải sản trọng điểm của cả nước. Xây dựng Cần Thơ thành trung tâm hậu cần logistic của vùng, Kiên Giang thành trung tâm nghề cá và dịch vụ lớn của cả nước. Ngoài ra, vấn đề  xây dựng, hoàn thiện và vận hành cơ chế tổ chức liên kết vùng ĐBSCL trong qui hoạch đầu tư phát triển, liên kết các ngành kinh tế biển, liên kết thị trường hiệu quả cũng là một yêu cầu cấp bách
ĐBSCL là tâm điểm của bán kính 500 km nối liền các thành phố lớn trong khu vực ASEAN. Ngoài biển Đông, ĐBSCL còn có tiềm năng kinh tế biển Tây với điều kiện tự nhiên thuận lợi, không bị gió bão, có “hòn ngọc quốc gia Phú Quốc” gắn với vịnh Thái Lan, đang tạo ra thế “địa kinh tế - quân sự” mới, đang mở ra một cánh cửa mới cho vùng ĐBSCL nhiều tiềm năng, nhưng cũng đầy thách thức.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

"Tính cách người Việt theo vùng miền"

Thảo luận về "Văn hoá & tính cách con người Việt theo vùng miền" trên  Trái tim Việt Nam online . Người bắc thường ăn nói nhẹ nhàng, kín đáo, thường hay suy nghĩ sâu xa. Người miền trung thì mọc mạc, chất phác lại hay có tính cục bộ. Người miền nam thì phóng khoáng cởi mở, dễ gần.Dân miền Bắc thường thể hiện mình qua lời nói, trong bất cứ tình huống nào họ cũng đều phải nói cho được. Dân miền Trung thường thể hiện mình qua thái độ, cử chỉ, còn miền Nam thì thể hiện qua phong cách. Nói chung dân Bắc-Trung-Nam đều diễn tuồng cả, cho nên lời nói lúc thì nhẹ nhàng điềm đạm, lúc lại gắt gỏng chua ngoa, thái độ có lúc thì đằm thắm, khi thì thì lại khinh bạc, phong cách thì có lúc phóng khoáng lúc lại dè dặt... Ấn tượng bên ngoài là như thế nhưng có khi bạn cũng thấy là chẳng ai tranh cãi lý luận lại người Trung, thái độ cử chỉ của dân Bắc cũng có thể khiến bạn dè chừng, và lời nói hay thái độ của dân Nam cũng khiến bạn chạy dài... Muốn kiểm chứng thì bạn cứ bỏ ra

ART NUDE PHOTOS của Dương Quốc Định

Quên những bộn bề lo toan giá vàng lên xuống, giá lúa, cá tra giảm, chuyện nhà khoa học phải nói dối ... để  ngắm ảnh các em xinh đẹp. Và nếu như kết quả nghiên cứu khoa học của một bà đầm Đức  là khoa học  (không như ta nói dối nhiều quá):  DÒM VÚ PHỤ NỮ TĂNG TUỔI THỌ     (Blog này đã từng có bài, nằm trong nhóm truy cập nhiều nhứt, có lẽ nhiều người đã luyện tập?) thì quý ông cũng nên tập thể dục con mắt một tí nhé. Xin mượn mấy tấm ảnh của nhà nhiếp ảnh Dương Quốc Định làm  dụng cụ luyện tập, ai có điều kiện thì xài hàng thật. Bộ sưu tập những bức ảnh khỏa thân và bán khỏa thân nghệ thuật của nhiếp ảnh gia trẻ Dương Quốc Định. Rất nhiều ảnh trong bộ sưu tập này đã đoạt những giải thưởng quốc tế uy tín. Cảm ơn tác giả đã chia sẻ tác phẩm trên internet. Mời bạn xem qua phần thể hiện bộ sưu tập trên PPS của chúng tôi. Link PPS:  http://vn.360plus.yahoo.com/nns-nguyennamson/article?new=1&mid=112 Chân dung Dương Quốc Định Dương Quốc Định  sinh năm 1967,

Nhớ Cần Thơ phố

Trần Hữu Hiệp B áo Dân Việt So với Thăng Long - Hà Nội ngàn năm văn hiến, cố đô Huế trầm tư hay Sài Gòn phố nhộn nhịp, thì Cần Thơ phố mang đậm đặc trưng sông nước miệt vườn. Nơi đó, hàng ngày, người Tây Đô vẫn đang sống cuộc đời bình dị. Nhớ thời học phổ thông, nhà tôi chỉ cách trung tâm Cần Thơ 20 Km, nhưng mãi đến năm 15 tuổi, lần đầu tiên mới được đến Cần Thơ cùng đội học sinh giỏi của Trường cấp III Ô Môn dự thi. Đêm, mấy thằng nhà quê lang thang, lạc đường trên phố Hòa Bình, thời đó là một  đại lộ mênh mông trong mắt nhìn bọn trẻ nhà quê chúng tôi. Ký ức Cần Thơ phố trong tôi một thời còn vang qua giọng ngâm của ai trong đêm tĩnh lặng nơi con hẻm nhỏ, bài thơ Tình trắng của Kiên Giang – Hà Huy Hà: “Cần Thơ, ơi hỡi Cần Thơ/Bóng dáng ngày xanh phủ bụi mờ/Ai nhặt giùm tôi bao kỷ niệm” … Và thơ tôi, tuổi học trò: “Ai đặt tên em tự bao giờ/Người đời hai tiếng gọi Cần Thơ/Mỗi lúc đi xa ta nhớ quá/Gặp lại hình em trong giấc mơ …”.   Nhớ Cần Thơ phố thời bao