Chuyển đến nội dung chính

Bộ ba chính sách phát triển đồng bằng sông Cửu Long

 TS TRẦN HỮU HIỆP

Thứ Bảy, 13-03-2021, 15:43

Mô hình lúa - tôm được xem là mô hình bền vững ở vùng chịu ảnh hưởng mặn. Trong ảnh: Nông dân huyện Thới Bình (Cà Mau) thu hoạch tôm bên ruộng lúa.

Tài nguyên đất và nước được ví như đôi chân kiến tạo và phát triển đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), từ đó hình thành trục xương sống của kinh tế vùng là nông nghiệp, thủy sản. Tuy nhiên, “đôi chân” phát triển đồng bằng đang đứng trước ba tầng thách thức to lớn, đòi hỏi phải có một sự chuyển đổi mô hình phát triển.

Cẩn trọng với “thế gọng kìm”

Theo thống kê, hiện mặt hàng lúa gạo của ĐBSCL chiếm hơn 90% sản lượng xuất khẩu cả nước, 20% thị phần lúa gạo thương mại toàn cầu, các mặt hàng tôm, cá tra, trái cây có mặt hơn 150 quốc gia và vùng lãnh thổ, góp phần đưa Việt Nam vào tốp 15 nước xuất khẩu nông sản trên thế giới… Đây là những con số được đề cập nhiều năm qua, nhưng đã đến lúc cần được nhận thức lại trước những thách thức mới.

Trước hết, cần nói đến thách thức mang tính toàn cầu xuyên biên giới chính là biến đổi khí hậu (BĐKH), nước biển dâng và yêu cầu hội nhập, cạnh tranh, phòng, chống dịch bệnh lây lan xuyên biên giới. Thách thức mang tính khu vực là việc sử dụng nước đầu nguồn sông Mê Công mà ĐBSCL đang trong tư thế bị động của vùng hạ lưu. Đó còn là thách thức từ chính các vấn đề nội tại của đồng bằng do một thời gian dài phát triển theo hướng thâm dụng tài nguyên, hoạt động kinh tế với cường độ cao nảy sinh các hệ lụy về môi trường, sụt lún, sạt lở cùng với hiện trạng sản xuất nhỏ lẻ, thiếu liên kết thực chất.

Lợi thế về tài nguyên đất đai, nguồn nước của vùng ĐBSCL ngày càng giảm đi; thiên tai, dịch bệnh, BĐKH ngày càng khốc liệt hơn. Lối mòn tư duy làm nông nghiệp truyền thống, chạy theo số lượng, coi nhẹ chất lượng, quên giá trị như đang bị nhân lên, trở thành những tác động tiêu cực tích lũy trước sức ép cạnh tranh - hội nhập - BĐKH. Rồi bất cập về kết nối cung - cầu, sản xuất với tiêu thụ nông sản… đang đặt ra cho vùng những thách thức to lớn. Điều đáng nói, các tầng thách thức không tác động riêng lẻ mà tạo ra “thế gọng kìm”, mang tính tích lũy, liên hoàn dẫn đến nhiều hệ lụy cho phát triển vùng.

Những thách thức to lớn mà ĐBSCL đang đối mặt đòi hỏi sự nhận diện mang tính hệ thống, có chiến lược ứng phó dài hạn, sự tiếp cận đa ngành và phối hợp giải quyết liên ngành. Việc Chính phủ xác định “Chuyển đổi mô hình phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng BĐKH” cần được xem là cách tiếp cận mới, giải pháp tổng thể giúp phá cho được thế “gọng kìm” nói trên.

Mô hình phát triển “thuận thiên”

Nghị quyết 120/NQ-CP về phát triển bền vững vùng ĐBSCL thích ứng BĐKH, quy hoạch tích hợp vùng đang được các địa phương thực hiện với kỳ vọng góp phần chuyển đổi mô hình phát triển mới cho vùng ĐBSCL trong giai đoạn tới.

Quy hoạch tích hợp cấp vùng ĐBSCL giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050, dựa trên tinh thần Nghị quyết 120 chính là cơ hội cho đồng bằng. Bên cạnh đó, Luật Quy hoạch 2017, Nghị quyết 120 và Quyết định 593 của Chính phủ về liên kết vùng có thể xem là “bộ ba chính sách vàng” cho ĐBSCL, mang nhiều hy vọng cho vùng đất sông nước này. Tuy nhiên, chính sách tốt chưa đủ, còn cần phải được cụ thể hóa bằng các chương trình kế hoạch trung hạn, ngắn hạn và hằng năm, không chỉ nằm trong những cân đối từ khu vực đầu tư công mà cần được chuyển hóa thành chương trình, dự án đầu tư cụ thể từ khu vực tư nhân.

Bộ ba chính sách phát triển đồng bằng sông Cửu Long -0
Mô hình nuôi tôm công nghệ cao tại tỉnh Cà Mau.

Diện mạo tương lai của ĐBSCL cần được hình thành trên các trụ cột phát triển bền vững: Kinh tế, xã hội, môi trường và văn hóa bản địa. Ứng phó với thiên tai bất thường, trước một tương lai bất định, thì con người cần cách tiếp cận mới, vừa chắc chắn, vừa linh hoạt, vừa bảo đảm yêu cầu của hiện tại, nhưng không làm tổn hại và đáp ứng nhu cầu của tương lai với nguyên tắc không hối tiếc. Vấn đề cốt lõi của ĐBSCL vẫn là định vị lại vùng này, bố trí không gian và huy động các nguồn lực phát triển.

Bởi các trụ cột phát triển vùng phải được xây dựng trên nền tảng văn hóa bản địa; lấy yếu tố con người làm trung tâm, trở thành chìa khóa tăng trưởng. Muốn tháo gỡ nút thắt phát triển của ĐBSCL, trước hết cần ưu tiên tập trung ba nhóm giải pháp sau:

Một là, nội dung quy hoạch tích hợp vùng ĐBSCL phải tạo được khung chính sách để tổ chức huy động tốt các nguồn lực thực thi quy hoạch; xây dựng cơ chế, chính sách mới nhằm phát triển, thu hút đầu tư, bảo đảm tính liên kết giữa các địa phương trong vùng và với các khu vực khác. Cần xây dựng các chương trình trọng điểm quốc gia cho vùng ĐBSCL để triển khai thực hiện quy hoạch.

Theo đó, cần bổ sung, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách phát triển vùng; xây dựng cơ chế phối hợp, giám sát, đánh giá tiến độ và hiệu quả thực thi quy hoạch. Thúc đẩy hình thành các quỹ đầu tư, các cơ chế huy động vốn khuyến khích cho vay, tăng cường năng lực cho các thành phần kinh tế. Xây dựng cơ chế tài chính riêng cho vùng thông qua nguồn lực trong và ngoài nước, hoàn thiện thể chế về môi trường đầu tư kinh doanh để thu hút đầu tư tư nhân là điều kiện cần để giải quyết điểm nghẽn vốn đầu tư.

Hai là, việc bố trí không gian và nguồn lực phát triển vùng trong quy hoạch cần ưu tiên ba lĩnh vực: Phát triển hạ tầng giao thông, logistics, hạ tầng nông nghiệp và nguồn nhân lực. Các đột phá này phải được ưu tiên trước để tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, ổn định, bền vững cho cả thời kỳ quy hoạch.
Ba là, hoạt động điều phối vùng, liên kết các tiểu vùng nên tập trung ba lĩnh vực then chốt là điều phối quy hoạch, quản lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên nước và quyết định các dự án đầu tư có tính liên kết vùng theo quy mô, tính chất dự án. Cần tăng cường tính công khai, minh bạch, phát huy hoạt động tư vấn, phản biện khoa học.

Trước cơ hội và thách thức mới, ĐBSCL phải thay đổi mô hình phát triển theo hướng tập trung hơn; phát triển các trung tâm kinh tế, các đô thị động lực, tập trung nguồn lực cho sự phát triển bền vững vùng. Đầu tư là giải pháp quan trọng trong giai đoạn đầu của quy hoạch vùng, nên cần tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng thiết yếu, tạo ra các trục xương sống cho phát triển.

Yêu cầu đặt ra là không chỉ nhận thức đúng về thời cơ và thách thức mà còn cần định vị đúng vai trò, vị trí của vùng ĐBSCL trong tiến trình phát triển. Mệnh lệnh từ thực tiễn đang đòi hỏi Nhà nước gia tăng vai trò kiến tạo, còn doanh nghiệp cần được phát huy để có thể hành động hiệu quả và người dân cần không gian đủ rộng để tăng cường đổi mới, sáng tạo. Không chỉ huy động nguồn lực ở khu vực công mà quan trọng hơn là thu hút được khu vực tư nhân tham gia phát triển vùng.

Tầm nhìn dài hạn trước thách thức, cạnh tranh cho một ĐBSCL phát triển an toàn, trù phú và bền vững trong tương lai đòi hỏi mô hình phát triển mới của ĐBSCL phải vượt qua các “điểm nghẽn” bằng cơ chế tài chính vượt trội, kiến tạo các hành động đột phá, không chỉ tập trung vào tăng trưởng kinh tế, mà quan trọng hơn, phải tạo ra được sự phát triển toàn diện, bền vững.

https://nhandan.vn/chuyen-de-cuoi-tuan/bo-ba-chinh-sach-phat-trien-dong-bang-song-cuu-long-638319/


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

"Tính cách người Việt theo vùng miền"

Thảo luận về "Văn hoá & tính cách con người Việt theo vùng miền" trên  Trái tim Việt Nam online . Người bắc thường ăn nói nhẹ nhàng, kín đáo, thường hay suy nghĩ sâu xa. Người miền trung thì mọc mạc, chất phác lại hay có tính cục bộ. Người miền nam thì phóng khoáng cởi mở, dễ gần.Dân miền Bắc thường thể hiện mình qua lời nói, trong bất cứ tình huống nào họ cũng đều phải nói cho được. Dân miền Trung thường thể hiện mình qua thái độ, cử chỉ, còn miền Nam thì thể hiện qua phong cách. Nói chung dân Bắc-Trung-Nam đều diễn tuồng cả, cho nên lời nói lúc thì nhẹ nhàng điềm đạm, lúc lại gắt gỏng chua ngoa, thái độ có lúc thì đằm thắm, khi thì thì lại khinh bạc, phong cách thì có lúc phóng khoáng lúc lại dè dặt... Ấn tượng bên ngoài là như thế nhưng có khi bạn cũng thấy là chẳng ai tranh cãi lý luận lại người Trung, thái độ cử chỉ của dân Bắc cũng có thể khiến bạn dè chừng, và lời nói hay thái độ của dân Nam cũng khiến bạn chạy dài... Muốn kiểm chứng thì bạn cứ bỏ ra

ART NUDE PHOTOS của Dương Quốc Định

Quên những bộn bề lo toan giá vàng lên xuống, giá lúa, cá tra giảm, chuyện nhà khoa học phải nói dối ... để  ngắm ảnh các em xinh đẹp. Và nếu như kết quả nghiên cứu khoa học của một bà đầm Đức  là khoa học  (không như ta nói dối nhiều quá):  DÒM VÚ PHỤ NỮ TĂNG TUỔI THỌ     (Blog này đã từng có bài, nằm trong nhóm truy cập nhiều nhứt, có lẽ nhiều người đã luyện tập?) thì quý ông cũng nên tập thể dục con mắt một tí nhé. Xin mượn mấy tấm ảnh của nhà nhiếp ảnh Dương Quốc Định làm  dụng cụ luyện tập, ai có điều kiện thì xài hàng thật. Bộ sưu tập những bức ảnh khỏa thân và bán khỏa thân nghệ thuật của nhiếp ảnh gia trẻ Dương Quốc Định. Rất nhiều ảnh trong bộ sưu tập này đã đoạt những giải thưởng quốc tế uy tín. Cảm ơn tác giả đã chia sẻ tác phẩm trên internet. Mời bạn xem qua phần thể hiện bộ sưu tập trên PPS của chúng tôi. Link PPS:  http://vn.360plus.yahoo.com/nns-nguyennamson/article?new=1&mid=112 Chân dung Dương Quốc Định Dương Quốc Định  sinh năm 1967,

Nhớ Cần Thơ phố

Trần Hữu Hiệp B áo Dân Việt So với Thăng Long - Hà Nội ngàn năm văn hiến, cố đô Huế trầm tư hay Sài Gòn phố nhộn nhịp, thì Cần Thơ phố mang đậm đặc trưng sông nước miệt vườn. Nơi đó, hàng ngày, người Tây Đô vẫn đang sống cuộc đời bình dị. Nhớ thời học phổ thông, nhà tôi chỉ cách trung tâm Cần Thơ 20 Km, nhưng mãi đến năm 15 tuổi, lần đầu tiên mới được đến Cần Thơ cùng đội học sinh giỏi của Trường cấp III Ô Môn dự thi. Đêm, mấy thằng nhà quê lang thang, lạc đường trên phố Hòa Bình, thời đó là một  đại lộ mênh mông trong mắt nhìn bọn trẻ nhà quê chúng tôi. Ký ức Cần Thơ phố trong tôi một thời còn vang qua giọng ngâm của ai trong đêm tĩnh lặng nơi con hẻm nhỏ, bài thơ Tình trắng của Kiên Giang – Hà Huy Hà: “Cần Thơ, ơi hỡi Cần Thơ/Bóng dáng ngày xanh phủ bụi mờ/Ai nhặt giùm tôi bao kỷ niệm” … Và thơ tôi, tuổi học trò: “Ai đặt tên em tự bao giờ/Người đời hai tiếng gọi Cần Thơ/Mỗi lúc đi xa ta nhớ quá/Gặp lại hình em trong giấc mơ …”.   Nhớ Cần Thơ phố thời bao