NGUYỄN MINH NHỊ
Báo Người Lao Động, ngày 01/03/2015
Tiềm năng nông nghiệp dẫn đầu cả nước nhưng khó nghèo cũng
dẫn đầu cả nước. Nguyên nhân chính nằm ở chỗ tư duy nông nghiệp manh mún, sơ
khai
Tổng sản lượng lúa cả nước
năm 2014 đạt 45 triệu tấn, so với năm 2005 tăng 13,64%. Trong đó, ĐBSCL đạt
25,2 triệu tấn, tăng 30,98%. Riêng 3 tỉnh An Giang, Kiên Giang và Đồng Tháp nhờ
“Chương trình Đồng Tháp Mười” và “Tứ giác Long Xuyên” nên sản lượng lúa năm
2014 cũng đạt 11,7 triệu tấn, tăng 32,95% so với năm 2005. Cùng với cây lúa,
cây ăn trái và cá tôm (nuôi) nước ngọt - lợ, ĐBSCL luôn dẫn đầu cả nước 3 sản
phẩm này.
Một góc đồng bằng |
Tội nghiệp “bà đỡ”!
Cách đây 10 năm, nông dân
ĐBSCL bắt đầu thực hiện việc mua giống lúa xác nhận được sản xuất tại địa
phương để gieo cấy chứ không tự để giống như trước kia. Khâu làm đất được cơ
giới hóa. Tưới tiêu bắt đầu điện khí hóa. Thu hoạch lúa bằng máy liên hợp và
sấy lúa theo dạng công nghiệp cũng bắt đầu triển khai.
Như vậy, đến năm 2015,
ĐBSCL đã hiện đại hóa - công nghiệp hóa sản xuất, thu hoạch, chế biến lúa gạo ở
tất cả các khâu và xuất khẩu gạo chiếm tỉ trọng hơn 90% cả nước. Việt Nam trở
thành nước sản xuất tiên tiến và xuất khẩu lúa gạo hàng đầu ASEAN cũng như thế
giới. Đó là thành quả nổi bật nhất của Đổi mới từ sau năm 1986, đã đưa nền sản
xuất tiểu nông, lạc hậu lên tầm sản xuất lớn, hiện đại và lớn nhanh chưa từng
có.
Tuy nhiên, nông nghiệp
ĐBSCL nói riêng và Việt Nam nói chung so với nội khối ASEAN thì có lớn nhanh mà
không mạnh.
Nhiều năm qua, nông dân
càng hội nhập càng gặp bất cập: “Trúng mùa rớt giá”, “hết đốn lại trồng”,
“trồng cây gì, nuôi con gì?”... Thậm chí nuôi, trồng những thứ bán mà không
biết người mua mua để làm gì rồi lại nghỉ ngang nửa chừng không mua như lá
khoai mì (sắn), lá điều lộn hột... hoặc sản xuất cung vượt cầu gây “dội chợ”.
Thủ tướng Chính phủ phải luôn luôn giải quyết “sở kẹt”, “tình thế” như “mua lúa
- gạo tạm trữ”, cấp quota xuất khẩu gạo...
Theo Bộ Công thương, xuất
khẩu năm 2014 đạt 150 tỷ USD, trong đó khối doanh nghiệp (DN) FDI là 101,6 tỷ
USD (kể cả dầu thô), các DN trong nước chỉ có 48,44 tỷ USD, khối nông - lâm -
thủy sản chiếm 1/3 tổng kim ngạch xuất khẩu, tuy chỉ có 30,48 tỷ USD nhưng vẫn
là “bệ đỡ” cho nền kinh tế. Trong sản phẩm làm ra, nông dân đóng góp đến 70%
giá trị nhưng hưởng lợi chỉ 50% lợi nhuận. “Chương trình xóa đói giảm nghèo” là
mục tiêu Thiên niên kỷ ở Việt Nam được Liên Hiệp Quốc ca ngợi vậy mà gần như
năm nào, cụ thể là năm 2014, dù không bị bão lũ nhưng Chính phủ vẫn phải xuất 3
đợt hơn 10.000 tấn gạo dự trữ cứu đói cho dân các tỉnh miền ngoài là những biểu
hiện không bền vững của nền kinh tế nói chung.
Cứ loay hoay, mạnh ai nấy
làm
Quan hệ sản xuất, nói nôm
na là quan hệ giữa nông dân với nông dân, với DN và thị trường dưới sự hỗ trợ
và theo “gậy” chỉ huy của nhà nước - nhạc trưởng. Trong đó, vai trò nông dân là
chủ lực quân, các chủ trang trại, giám đốc hợp tác xã và DN ngoài quốc doanh có
vai trò “dẫn mũi chiến đấu” rất quyết định trong hội nhập toàn cầu. Nếu xác định
như vậy thì phải thu xếp lại các DN nhà nước và chấn chỉnh lại chức năng của
các cơ quan quản lý nhà nước lâu nay đã làm hết vai trò lịch sử “bà đỡ”. Vì “bà
đỡ” chỉ đỡ cho ra “trẻ con” chứ không đỡ cho ra “người lớn” được. Trong quan hệ
kinh tế thì phải tôn trọng và làm theo quy luật thị trường. Thị trường mà không
biết người mua mua gì và mua giá nào thì chỉ là “nửa thị trường”. Trong quản lý
nhà nước thì phải là luật pháp và chế tài chứ không thể dùng “lệ làng”.
Trong những năm 1990, làm
việc với ông David Lâm - “vua gạo” Hồng Kông, thấy ông đang hợp tác với các
tỉnh Tiền Giang, An Giang, Đồng Tháp... xây nhà máy chế biến gạo hiện đại ở Mỹ
Tho (Tiền Giang) nhưng không mua đủ lúa, tôi hỏi sao không ký hợp đồng có giá
mua với nông dân trước để họ yên tâm trồng, ông nói: “Tôi đã thất bại ở Trung
Quốc rồi, vì khi có ai mua giá cao hơn thì họ phá hợp đồng, thưa không ai xử”.
Lúc đó và bây giờ ở Việt Nam là như vậy. Liên doanh ấy lỗ nặng, thất bại và
giải tán. Đây là vấn đề thuộc về quyền sở hữu nói chung trong quan hệ sản xuất
chứ không chỉ riêng về sở hữu đất đai mà luật pháp ta không bảo đảm cho các
thành phần kinh tế phi quốc doanh, nhất là DN FDI, yên tâm mạnh dạn đầu tư.
Nông nghiệp mà không hợp
tác sản xuất theo chuỗi giá trị trong một hình thức tổ chức thích hợp trên một
địa bàn chuyên canh; không có bộ máy quản lý hành chính chuyên ngành, chuyên
nghiệp và có hệ thống; không có các thành phần: DN nhà nước (khâu trọng yếu),
thành phần tư nhân (rộng rãi) và không có DN FDI thì sẽ không mạnh vì mục đích
sản xuất không minh định và chọn lọc hợp thời, cơ chế quản lý phân tán, phân
khúc và cơ cấu thành phần DN không có “chân kiềng”... là nền nông nghiệp còn
nặng tính tự nhiên và địa phương chủ nghĩa.
Tỉnh An Giang có các hình
thức hợp tác sản xuất - kinh doanh, “liên kết 4 nhà”, thực hiện ký kết tiêu thụ
sản phẩm rất sớm nhưng mỗi khi có sự vi phạm quy hoạch và kế hoạch sản xuất,
các hợp đồng kinh tế bị hủy bỏ đơn phương thì không ai “muốn” hoặc không “dám”
xử vì sợ “mất lập trường với nông dân” hoặc “sợ làm hạn chế đầu tư”. Nếu phạt
vi phạm hợp đồng kinh tế như phạt vi phạm Luật Báo chí và Luật Giao thông đường
bộ hiện nay thì kinh tế mới tốt lên được.
Hợp đồng kinh tế và xử
phạt vi phạm hợp đồng dù bất cứ ai, đó là “cái lề” của kinh tế thị trường tự do
như giấy phải có lề. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất phải có sự phù hợp
nào đó thì kinh tế mới phát triển bền vững và việc điều chỉnh cho phù hợp chỉ
có thể bằng chính sách, luật pháp và tổ chức - cán bộ chứ không thể chỉ bằng
chỉ thị, nghị quyết hay tình cảm. Muốn vậy, phải tái cơ cấu tổ chức và chức
năng quản lý nhà nước trước khi tái cấu trúc nền kinh tế nông nghiệp.
Nhận xét
Đăng nhận xét