QUỐC TRUNG (THỰC HIỆN)
Đại Đoàn Kết -
06:55 29/11/2022
“Xuất khẩu gạo đã có những dịch chuyển mạnh sang phân
khúc gạo chất lượng vượt trội, khả năng cạnh trạnh cao. Để tiếp tục phát huy
giá trị gạo Việt, thời gian tới cần chú trọng việc cơ cấu, đầu tư công nghệ và
liên kết xây dựng thương hiệu...” – TS. Trần Hữu Hiệp - nguyên Ủy viên
Chuyên trách, Vụ trưởng Vụ Kinh tế, Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ nhận định với Đại
Đoàn Kết.
TS. Trần Hữu Hiệp: Cơ
cấu ngành nông nghiệp chuyển từ cơ cấu lúa gạo, trái cây, thủy sản sang giai
đoạn mới là thủy sản, trái cây, lúa gạo, cho thấy vị trí của lúa gạo mặc dù xếp
thứ 3, nhưng vai trò, tầm quan trọng của nó không mất đi.
Chúng ta
cần phải hiểu ý nghĩa của sự chuyển đổi này. Cho đến nay lúa, gạo vẫn là ngành
đặc biệt quan trọng, còn hơn chục triệu nông hộ vẫn gắn liền với cây lúa.
Ngành
lúa gạo đang có bước chuyển mới, vì vậy cần có nhận thức đúng với tư duy, cách
tiếp cận mới. Đó là tiếp cận từ góc độ tự nhiên, là điều kiện sinh thái đất
đai, thổ nhưỡng, khí hậu thời tiết, đặc biệt là tài nguyên nước. Trong khi tài
nguyên nước ở sông Mekong đang có những thay đổi lớn, đang bị tác động từ chuỗi
các đập thủy điện thượng nguồn, lượng phù sa qua xem xét và tính toán đã bị
giảm khoảng 40% trong vòng 50 năm qua. Và tính thất thường của thời tiết thủy
băng của dòng Mekong đã có những tác động lớn, buộc ngành trồng lúa phải thay
đổi.
Cái mới
thứ hai đó là thị trường thay đổi. Nếu như trước đây chúng ta tiếp cận theo
hướng sản xuất lúa, gạo là để ăn, tiếp cận theo nguồn dinh dưỡng là chủ yếu,
thì bây giờ chuyển sang một cấp độ cao hơn, theo sắp xếp của thế giới hiện đã
lên bậc thứ 4. Cụ thể ngày xưa ăn để no, sau đó ăn để ngon, tiếp đến ăn an
toàn. Ngày nay vẫn ở mức ăn an toàn nhưng lại ở cấp độ cao hơn, đó là ăn để trị
bệnh, tất nhiên không bỏ qua yếu tố cung cấp dinh dưỡng cho ngon miệng…như vậy
hạt gạo cũng phải chuyển đổi để đáp ứng nhu cầu đó. Hiện gạo Việt đang tiếp cận
thị trường cao cấp, khó tính hơn như Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU
(EVFTA), phân khúc gạo chất lượng cao được đặc biệt quan tâm.
Điều thứ
ba đó là có những bước chuyển dịch trong công nghệ, hiện chúng ta số hóa đồng
ruộng, ứng dụng viễn thám ngày càng nhiều hơn. Những công nghệ sẽ làm giảm chi
phí đầu vào đồng thời nâng cao giá trị hạt gạo.
Điều đặc
biệt nữa là việc tiêu thụ, xuất khẩu phải luôn gắn với việc truy xuất nguồn gốc
đòi hỏi mã vùng trồng. Từ đó đặt ra vai trò mới đối với người nông dân đó là
không thể đi một mình như các nông hộ nhỏ lẻ, mà phải liên kết lại thành các mô
hình hợp tác, hợp tác xã.
* Để phát huy được giá trị hạt gạo, vấn đề đầu tư, xây dựng
cánh đồng mẫu lớn, sự liên kết và xây dựng thương hiệu gạo trong thời gian tới
thế nào thưa ông?
- Với
những bước chuyển và yêu cầu mới của thị trường, chúng ta đặt ra các giải pháp
tập trung trong thời gian tới. Theo đó, cần phải tập trung cho sản xuất lớn chứ
không nhỏ lẻ như thời gian qua. Từ đó đòi hỏi phải có các mô hình hợp tác, cho
đến nay mô hình cánh đồng lớn vẫn là mô hình trọng yếu. Nhưng thay vì cánh đồng
lớn ngày xưa chỉ nhìn ở không gian vật lý, giờ đòi hỏi cái mới. Bên cạnh không
gian vật lý, quy mô lớn phải tích hợp những giá trị, công nghệ mới vào trong đó
như công nghệ viễn thám để theo dõi quá trình tăng trưởng của cây lúa, phải
tích hợp những giá trị khác ngoài cây lúa ví dụ như những mô hình lúa tôm hay
mô hình du lịch nông nghiệp… đó mới thực sự là cánh đồng lớn, cánh đồng kỹ
thuật số, tích hợp những giá trị công nghệ trong đó. Có nhiều giá trị tích hợp
ở đây thì ngành công nghiệp gạo mới phát triển được.
Muốn làm
được điều trên phải kết hợp giải quyết những vấn đề về cơ chế chính sách pháp
luật, gắn với việc sửa đổi Luật Đất đai sắp tới.
Ngoài ra
cách tiếp cận thị trường cũng cần phải được chú ý. Hiện nay thị trường đã được
thay đổi, tất nhiên vẫn còn một số quốc gia giữ vững nhập khẩu của Việt Nam như
Indonesia đang đặt vấn đề nhập khẩu 500 nghìn tấn gạo ngay lúc này. Nhưng với
cách tiếp cận chuyển đổi hạt gạo Việt, có ít nhất 3 phân khúc, một là phân khúc
cho gạo cấp cao ở những thị trường có thể làm tăng giá trị sản lượng; Phân khúc
thứ 2 là thị trường trong nước. Việt Nam với 100 triệu dân đều ăn cơm là chính.
Do đó, thị trường nội địa rất lớn và giàu tiềm năng. Phân khúc thứ 3 là gạo là
đầu vào, là nguyên liệu cho những ngành sản xuất, trong đó có những ngành sản
xuất lương thực, thực phẩm truyền thống và những ngành mà tạo ra các giá trị
mới cho hạt gạo.
Ở khâu
sản xuất, thời gian qua đã có nhiều ứng dụng công nghệ tốt rồi, nhiều khâu làm
đất, thu hoạch đã được cơ giới hóa…được áp dụng công nghệ hiện đại. Tuy nhiên
điều quan trọng là những công nghệ này phải được áp dụng trong phạm vi và quy
mô lớn hơn nữa trong thời gian tới.
Bên cạnh
đó quá trình sản xuất phải luôn gắn liền với thị trường tiêu thụ, ví dụ khách
hàng ở nước ngoài muốn nhập khẩu gạo họ phải tiếp cận được nguồn gốc hay nói
cách khác họ phải truy xuất được nguồn gốc mặt hàng đó. Vì vậy nông dân phải
gắn sản xuất với xây dựng thương hiệu hạt gạo, để khách hàng tin tưởng khi họ
truy xuất nguồn gốc các mặt hàng. Việc xây dựng thương hiệu hạt gạo cũng đang
được nhà quản lý hết sức chú trọng.
Là đối tượng sản xuất chính, làm ra hạt gạo nhưng người
nông dân vẫn nghèo, rất ít người giàu nhờ trồng lúa. Ông có nhận định thế nào
về vấn đề này, thưa ông?
- Phải
nhìn nhận vấn đề lâu nay chúng ta vẫn hay nói đảm bảo cho nông dân sản xuất lúa
ít nhất lãi 30%, đây là con số “đẹp”. Tuy nhiên có thực chất như vậy hay không,
cần phải tính toán giá trị thật của nó và phải tính thu nhập trong năm của
người trồng lúa. Vì một năm làm 2 vụ, vậy thu nhập 30% đó được tính theo từng vụ
lúa hay cả năm. Vì người nông dân họ phải trang trải đủ mọi chi phí, gánh nặng
cho một năm sản xuất. Cũng phải thừa nhận vẫn có những người nông dân khá, thậm
chí có người giàu, nhưng đây chỉ là con số ít và nông dân muốn giàu thì phải có
diện tích đất lớn và không thể độc canh cây lúa.
Chúng ta
cần phải thừa nhận, nông dân vẫn là đối tượng thu nhập thấp, đặc biệt là người
trồng lúa độc canh, họ không thể giàu lên chỉ với duy nhất nghề trồng lúa. Vì
vậy muốn nâng cao đời sống, thu nhập của người nông dân phải gắn với chuyển đổi
chung của ngành lúa gạo.
Nói tóm
lại nông dân muốn thoát nghèo phải thoát khỏi độc canh cây lúa, thoát khỏi sản
xuất nhỏ lẻ, thoát khỏi sản xuất nông nghiệp truyền thống lâu nay, phải tiếp
cận với kinh tế nông nghiệp, khoa học công nghệ, số hóa... Người nông dân không
thể đi một mình riêng lẻ trong hội nhập thị trường ngày nay.
Trân trọng cảm ơn ông!
http://daidoanket.vn/khang-dinh-gia-tri-cua-hat-gao-5703329.html
Nhận xét
Đăng nhận xét