Chuyển đến nội dung chính

Miền Tây - những mảnh giáp bảo vệ cuối cùng đang vỡ: Giải pháp thì nhiều, kết quả chẳng thấy đâu...

HOÀNG VĂN MINH 

Báo Lao Động -  Thứ ba, 20/06/2017 10:52 (GMT+7)

 

“Tôi không muốn nói là u ám, nhưng đúng là rất… u ám” - câu cảm thán của TS Trần Hữu Hiệp - Ủy viên chuyên trách kinh tế Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ - với chúng tôi cách đây 3 năm, khi nói về những bước chân liêu xiêu đói nghèo của người dân cuối Việt. Sau 3 năm gặp lại, hỏi chuyện cũ, ông Hiệp vẫn nhắc lại câu nói cũ kèm thêm những cái lắc đầu: “Không những không thay đổi được gì mà tình hình ngày càng xấu hơn…”.

Lượm bỏ chạy khi đồng nghiệp của chúng tôi đưa máy ảnh lên bấm. Ảnh: H.V.M
 

Những tan vỡ và mất mát

“Thành phố Bavet” (tỉnh Soài Riêng, Campuchia) bên kia Mộc Bài một trưa nắng tháng 6. Lại là một casino bỏ hoang, nhưng lần này chúng tôi ghé lại bởi ngạc nhiên khi thấy trước cổng có cô bé đầu trần ngồi ôm cái thùng nhựa với ánh mắt chờ đợi đặc trưng của người bán hàng ế khách. Lượm - tên cô bé, 14 tuổi, đến từ bên kia cửa khẩu Mộc Bài ở tận dưới miệt Sóc Trăng, theo ba mẹ qua đây kiếm sống đã nhiều năm sau một thời gian bỏ ruộng, bỏ nhà bôn ba lên Sài Gòn, qua Bình Dương làm công nhân. Lượm bán đồ ăn vặt “xách tay” bỏ trong thùng nhựa.

Em gái Lượm - nhỏ hơn một tuổi, đi bán vé số. Mẹ của chị em Lượm thì bán cóc ổi xoài và tất tần tật những gì có thể ăn được trên một chiếc xe đẩy. Đối tượng phục vụ của gia đình lượm, tất nhiên là những người Việt “vượt biên” sang đây chơi đỏ đen trong các casino còn sót lại đang lay lắt cầm chừng...

Hôm trước ở Long An, chúng tôi vừa “xâm nhập” vào một khu nhà trọ có đến mấy chục gia đình từ Campuchia “vượt biên” qua kiếm sống bằng nghề bán vé số. Chưa hết ngạc nhiên thì hôm nay ở Campuachia lại “đụng” phải không chỉ một cô Lượm mà nhiều những người Việt cũng qua đây kiếm cơm bằng đủ thứ nghề buồn chán, trong đó có rất nhiều cô gái có chút nhan sắc đang “làm gái” trong các casino với giá “dò hỏi” lên đến 1.500.000 đồng cho một lần “tàu nhanh” từ “bọn chăn dắt”.

Mà đâu chỉ có mỗi “thành phố Bavet” này. Ở Singapore, Malaysia, Trung Quốc vùng giáp biên… ở đâu chúng tôi cũng gặp rất nhiều người Việt dắt díu nhau kiếm sống với những nghề cũng rất buồn chán. Và thật buồn là phần lớn trong số họ có xuất xứ từ miền Tây - nơi từng là “mảnh đất xanh”, là “đất hứa” của nhiều thế hệ người dân miền Trung, miền Bắc. Khá giả hơn cả là “biệt đội” những cô gái lấy chồng ngoại, nhưng bi kịch thì đầy rẫy, hơn chục năm nay báo chí kể mãi không hết chuyện.

3 năm trước, trong loạt phóng sự “Liêu xiêu nơi cuối Việt”, chúng tôi đã đi qua những ngôi làng bị “đổi ngôi” khi phụ nữ trong gia đình là người kiếm tiền chính bằng cách đi làm công nhân, còn đàn ông ngược lại ở nhà lo quét dọn nhà cửa, cơm nước, đưa đón con đi học và… nhậu! Đó là một sự tan vỡ, mất mát, bắt đầu từ bữa cơm và sự phân công việc làm trong mỗi gia đình, chỉ dấu báo hiệu cho những tan vỡ và mất mát lớn hơn.

“Thời gian gần đây, tỉ lệ ly hôn ở các gia đình có vợ làm công nhân ở Long An do vợ chủ động tăng đột biến” - một chánh án ở Long An than thở. Một khảo sát bỏ túi của chúng tôi cho thấy, cứ 10 gia đình “đổi ngôi” thì có đến 3-4 đã ly hôn hoặc đang ly thân và người “đâm đơn” hoặc chủ động khép mình là người vợ với một lý do chung như thú nhận của một người vợ rất đau lòng: Sau một thời gia “đi ra” làm công nhân, họ tiếp xúc với nhiều người, nhiều không gian sống cùng bao chuyện mới lạ. Cứ thế một hôm, bỗng dưng họ thấy “thằng chồng” suốt ngày say xỉn và không làm ra tiền của mình ở nhà thật là nhạt nhẽo!

Thời sự, vẫn là hạt gạo bị cắn làm 8

Nếu như gốc rễ của chuyện sạt lở ở ĐBSCL là nạn khai thác cát tràn lan thì gốc rễ của những thân phận bị “tước đoạt” tư liệu sản xuất với nhiều hình thức, đang ngập ngụa trong tín dụng đen trá hình thành “ngân hàng trụ điện” và những hành vi “ác hồn nhiên” đang ngày càng phổ biến ở vùng đất này là gì? Là ĐBSCL sau bao nhiêu năm vẫn là một “vùng trũng” về giáo dục, văn hóa, nhận thức và các thiết chế đi kèm. Là sự đi xuống của hình sin đói nghèo và chưa có dấu hiệu dừng lại.

TS Trần Hữu Hiệp - Ủy viên chuyên trách kinh tế Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ - nói “đó là thực tế, một thực tế đau lòng!”. Cách đây hơn 5 năm, chính ông Hiệp là người phát triển “lý thuyết” hạt gạo Việt Nam đang bị cắn chia làm 8 nên lợi nhuận của người trồng lúa teo tóp của TS Nguyễn Văn Sánh - Giám đốc Viện Nghiên cứu phát triển ĐBSCL (Đại học Cần Thơ).

Ông Hiệp bảo, trong 8 phần đó, 4 phần đầu tiên phải chia cho “4 nhà” gồm: Nhà băng (nông dân phải trả vốn, đóng lãi ngân hàng, kể cả vay lãi cao bên ngoài để có tiền đầu tư sản xuất); nhà cung ứng vật tư (mua chịu phân bón, thuốc trừ sâu đầu vụ, trả lãi cao cuối vụ, chiếm tới khoảng 65% chi phí sản xuất); nhà mình (ăn uống, chữa bệnh, học hành, các khoản đóng góp... chiếm thêm 21%); nhà hàng xóm (hoan, hôn, tang, tế…). Còn 4 phần sau?

Ông Hiệp liệt kê: Đó là nhà xuất khẩu (nhà gần như có đặc quyền quyết định giá lúa hằng năm căn cứ vào hiệu quả kinh doanh, mà không nhìn vào hầu bao lép kẹp của nông dân); “ông CPI” (lúa gạo do nông dân làm ra phải làm nhiệm vụ bình ổn giá tiêu dùng, không thể tăng-giảm tự nhiên theo nhịp điệu thị trường thế giới); nhiệm vụ đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, góp phần tích cực vào an ninh lương thực thế giới.

Rồi ông Hiệp ví von: “Sản xuất lúa gạo của nông dân hiện nay như cây đòn gánh. Gánh nặng đầu vào là nguyên liệu, vật tư, phân bón, chi phí ngày càng cao; đầu kia là tiêu thụ lúa gạo bấp bênh; cả 2 đầu đều đang “có vấn đề”. Người nông dân vừa gánh, vừa bị “lắc lư” trong thế dễ ngã”.

Mà đâu mỗi hạt gạo bị “cắn” làm 8 phần, ngay cả con cá, cây mía và các loại nông sản khác cũng bị chặt làm nhiều khúc, chia ra nhiều phần nhưng phần của người nông dân được nhận lại quá nhỏ và bất hợp lý, không tương xứng với công sức họ bỏ ra.

Bất cứ con gì, cây gì, bây giờ nếu bán có lời thì hết 70% tiền lời là những thương lái trung gian, phần lớn là thương lái nước ngoài hưởng. Nhưng nếu lỗ thì người dân chịu hoàn toàn. TS Trần Hữu Hiệp cay đắng: “Câu chuyện sản xuất ở ĐBSCL hiện nay như cái đòn gánh. Một bên là đầu vào nặng trĩu giá vật tư, phân bón, tiền lãi vay; một bên là đầu ra với giá cả bấp bênh, phập phù theo giá thị trường sớm nắng chiều mưa, nên người nông dân ở giữa cứ bước liêu xiêu với tương lai mờ mịt”.

Những “mảnh giáp” bảo vệ của ĐBSCL không những ngày càng mỏng đi mà còn đã và đang vỡ ra, bắt đầu từ việc vắng bóng những mùa lũ “đặc sản” hằng năm mang theo nguồn phù sa vô tận cùng với hạn mặn, thiếu nước và sạt lở bủa vây quanh năm.

Là một nền nông nghiệp bị “bỏ hoang” theo nhiều nghĩa khiến vùng đất này thành “túi nghèo” của đất nước và những dòng người “đóng cửa” ruộng vườn, nhà cửa dắt díu nhau ngược lên Sài Gòn, Bình Dương, Đồng Nai… làm công nhân kiếm sống qua ngày. Những kết cấu xã hội và các giá trị đạo đức bị xáo tung, đảo lộn, từ bữa cơm gia đình nguội lạnh và người đàn ông phải chăm con, quét nhà… để vợ yên tâm ra ngoài làm công nhân kiếm tiền lo gia đình. Là những cô gái không chỉ ngược xuôi Nam-Bắc mà còn đến hầu khắp khu vực Đông Nam Á kiếm cơm bằng đủ thứ nghề buồn tủi cùng triết lý “lấy chồng nước ngoài thì có hạnh phúc, có khổ đau nhưng ở nhà lấy chồng quê thì chỉ là bất hạnh”.

Một kết quả nghiên cứu về “Chuỗi giá trị ngành hàng lúa gạo” của Viện Nghiên cứu phát triển Đồng bằng sông Cửu Long cho thấy: Bình quân đất sản xuất của người dân ở đây chỉ có 0,4ha/hộ. Và do quy mô nhỏ lẻ nên thu nhập chia cho số nhân khẩu trong hộ thuần nông còn thấp hơn 1USD/người/ngày - chưa đủ để mua một tô phở! Một con số không thể nào tin được!

Sau nhiều năm gặp lại TS Trần Hữu Hiệp, thời sự của ĐBSCL vẫn là chuyện hạt gạo bị “cắn” làm 8 phần và con cá, cây mía, các loại nông sản bị chặt ra nhiều khúc, chia ra nhiều phần… Hỏi giải pháp và kết quả? Ông Hiệp lắc đầu, thở dài bảo “giải pháp thì nhiều nhưng kết quả lại chẳng thấy đâu và nguy hiểm hơn là thực tế lại ngày mỗi xấu đi…”.

https://laodong.vn/phong-su-dieu-tra/mien-tay-nhung-manh-giap-bao-ve-cuoi-cung-dang-vo-giai-phap-thi-nhieu-ket-qua-chang-thay-dau-511831.ldo

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

"Tính cách người Việt theo vùng miền"

Thảo luận về "Văn hoá & tính cách con người Việt theo vùng miền" trên  Trái tim Việt Nam online . Người bắc thường ăn nói nhẹ nhàng, kín đáo, thường hay suy nghĩ sâu xa. Người miền trung thì mọc mạc, chất phác lại hay có tính cục bộ. Người miền nam thì phóng khoáng cởi mở, dễ gần.Dân miền Bắc thường thể hiện mình qua lời nói, trong bất cứ tình huống nào họ cũng đều phải nói cho được. Dân miền Trung thường thể hiện mình qua thái độ, cử chỉ, còn miền Nam thì thể hiện qua phong cách. Nói chung dân Bắc-Trung-Nam đều diễn tuồng cả, cho nên lời nói lúc thì nhẹ nhàng điềm đạm, lúc lại gắt gỏng chua ngoa, thái độ có lúc thì đằm thắm, khi thì thì lại khinh bạc, phong cách thì có lúc phóng khoáng lúc lại dè dặt... Ấn tượng bên ngoài là như thế nhưng có khi bạn cũng thấy là chẳng ai tranh cãi lý luận lại người Trung, thái độ cử chỉ của dân Bắc cũng có thể khiến bạn dè chừng, và lời nói hay thái độ của dân Nam cũng khiến bạn chạy dài... Muốn kiểm chứng thì bạn cứ bỏ ra ...

ART NUDE PHOTOS của Dương Quốc Định

Quên những bộn bề lo toan giá vàng lên xuống, giá lúa, cá tra giảm, chuyện nhà khoa học phải nói dối ... để  ngắm ảnh các em xinh đẹp. Và nếu như kết quả nghiên cứu khoa học của một bà đầm Đức  là khoa học  (không như ta nói dối nhiều quá):  DÒM VÚ PHỤ NỮ TĂNG TUỔI THỌ     (Blog này đã từng có bài, nằm trong nhóm truy cập nhiều nhứt, có lẽ nhiều người đã luyện tập?) thì quý ông cũng nên tập thể dục con mắt một tí nhé. Xin mượn mấy tấm ảnh của nhà nhiếp ảnh Dương Quốc Định làm  dụng cụ luyện tập, ai có điều kiện thì xài hàng thật. Bộ sưu tập những bức ảnh khỏa thân và bán khỏa thân nghệ thuật của nhiếp ảnh gia trẻ Dương Quốc Định. Rất nhiều ảnh trong bộ sưu tập này đã đoạt những giải thưởng quốc tế uy tín. Cảm ơn tác giả đã chia sẻ tác phẩm trên internet. Mời bạn xem qua phần thể hiện bộ sưu tập trên PPS của chúng tôi. Link PPS:  http://vn.360plus.yahoo.com/nns-nguyennamson/article?new=1&mid=112 Chân dung Dương Quốc Địn...

Nhớ Cần Thơ phố

Trần Hữu Hiệp B áo Dân Việt So với Thăng Long - Hà Nội ngàn năm văn hiến, cố đô Huế trầm tư hay Sài Gòn phố nhộn nhịp, thì Cần Thơ phố mang đậm đặc trưng sông nước miệt vườn. Nơi đó, hàng ngày, người Tây Đô vẫn đang sống cuộc đời bình dị. Nhớ thời học phổ thông, nhà tôi chỉ cách trung tâm Cần Thơ 20 Km, nhưng mãi đến năm 15 tuổi, lần đầu tiên mới được đến Cần Thơ cùng đội học sinh giỏi của Trường cấp III Ô Môn dự thi. Đêm, mấy thằng nhà quê lang thang, lạc đường trên phố Hòa Bình, thời đó là một  đại lộ mênh mông trong mắt nhìn bọn trẻ nhà quê chúng tôi. Ký ức Cần Thơ phố trong tôi một thời còn vang qua giọng ngâm của ai trong đêm tĩnh lặng nơi con hẻm nhỏ, bài thơ Tình trắng của Kiên Giang – Hà Huy Hà: “Cần Thơ, ơi hỡi Cần Thơ/Bóng dáng ngày xanh phủ bụi mờ/Ai nhặt giùm tôi bao kỷ niệm” … Và thơ tôi, tuổi học trò: “Ai đặt tên em tự bao giờ/Người đời hai tiếng gọi Cần Thơ/Mỗi lúc đi xa ta nhớ quá/Gặp lại hình em tron...