Chuyển đến nội dung chính

NÔNG DÂN ĐBSCL: HẠT GẠO CẮN LÀM TÁM

TTCT - Hai tuần trước, Bộ NN&PTNT vui mừng tuyên bố “xuất khẩu gạo thắng lớn” với lượng gạo xuất khẩu năm 2011 ước đạt 7,5 triệu tấn, giá trị xuất khẩu ước đạt 3,7 tỉ USD. Tuần sau là những thông tin đáng lo về một đối thủ cạnh tranh mới: gạo giá rẻ Ấn Độ. Tất cả một lần nữa gợi lại câu chuyện ưu tư lâu nay về người nông dân đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) - chủ nhân thật sự của bát cơm châu Á - về cuộc sống mãi vẫn chưa giàu của họ.


Sắc hoa trên đồng
 Theo TS Nguyễn Văn Sánh - giám đốc Viện Nghiên cứu phát triển ĐBSCL, hạt gạo của nông dân hiện nay đang bị “cắn chia làm tám phần” nên lợi nhuận của người trồng lúa bị teo tóp. Bốn phần đầu cho “bốn nhà”: nhà băng (vay vốn, đóng lãi, kể cả phải vay lãi cao bên ngoài), nhà vật tư (mua chịu phân bón, thuốc trừ sâu đầu vụ, cuối vụ trả lãi cao) chiếm khoảng 65% chi phí, nhà mình (gánh nặng chi tiêu ăn uống, chữa bệnh, học hành con cái, các khoản đóng góp...) chiếm khoảng 21% và... nhà hàng xóm (đám tiệc, giỗ quải, giao tế xã hội...). Phần thứ năm là nhà xuất khẩu gạo mà hiệu quả kinh doanh gần như quyết định giá lúa hằng năm. Phần thứ sáu là lúa gạo phải làm nhiệm vụ bình ổn giá tiêu dùng (CPI) cho xã hội.
Có người ví việc sản xuất lúa gạo của nông dân hiện nay như cây đòn gánh: đầu này nặng trĩu những nguyên liệu, vật tư, phân bón, chi phí ngày càng cao, đầu kia là tiêu thụ lúa gạo bấp bênh, giá thấp. Người nông dân vừa gánh vừa bị “lắc lư” trong thế dễ ngã.
Đồng xanh
Chỉ sau hai thập niên qua, sản lượng lúa ĐBSCL đã được nhân lên hơn gấp đôi, từ 9,48 triệu tấn (năm 1990) lên hơn 21 triệu tấn (năm 2010), kim ngạch xuất khẩu gạo luôn chiếm khoảng 90% cả nước. Nhưng những người chủ của “bát cơm châu Á” vẫn chưa chuyển được căn bản từ vị thế của người làm ra “chén cơm đầy” để chống đói hôm qua, đến vị trí của người sản xuất ra “chén cơm ngon” để bán được giá, làm giàu.
Thách thức từ đồng ruộng
Theo Bộ NN&PTNT, chỉ có 25% nông hộ tiếp cận được thông tin thị trường, 90% sản phẩm nông nghiệp được bán ở dạng thô và 60% bị bán với giá thấp; trong khi có đến 40-50% chi phí của gạo xuất khẩu liên quan đến nguyên liệu đầu vào nhập khẩu.
Một nghiên cứu về “An ninh lương thực ở VN và chuỗi giá trị lúa gạo” của nhóm chuyên gia thuộc Ngân hàng Thế giới cách đây không lâu cho rằng trong điều kiện xấu nhất VN vẫn đảm bảo an ninh lương thực, nhưng tình trạng suy dinh dưỡng trẻ em ở vùng lúa này đã không giảm tương xứng tốc độ gia tăng sản lượng gạo mà cha mẹ chúng làm ra (xếp thứ 7/8 khu vực cả nước về tỉ lệ giảm suy dinh dưỡng trong thập niên qua).
Sản xuất nhiều gạo hơn không hẳn là giải pháp cho an ninh lương thực, giúp nông dân làm giàu mà cần cách tiếp cận đa ngành. Tuy hỗ trợ của Chính phủ tiếp tục được thực thi, những vị lãnh đạo cao nhất đã cam kết bảo vệ bằng được 3,81 triệu ha đất lúa... nhưng để hiện thực hóa chủ trương đó, rất cần có sự phân biệt rõ ràng giữa đáp ứng cho mục tiêu chính trị - xã hội - công cộng và kinh tế - thương mại - lợi nhuận của người trồng lúa.
Thành công trong quá khứ của ngành sản xuất lúa gạo ĐBSCL chưa phải là bảo đảm cho thành công của tương lai. Một cách tiếp cận “làm như mọi khi” chắc chắn sẽ không hiện thực hóa được tiềm năng của ngành này.
Từ đồng ruộng ra thương trường
Làm gì để giúp hàng chục triệu nông dân ĐBSCL trở thành “doanh nhân sánh vai”, để “doanh nhân hóa nông dân” - một trong những yêu cầu đặt ra để hiện đại hóa ngành sản xuất lúa gạo vùng đất chín rồng?
Thương trường là cạnh tranh, muốn cạnh tranh phải có nguồn lực và kiến thức, không chỉ kiến thức làm ruộng, trồng cây, nuôi cá mà cả kiến thức quản lý đồng vốn, quản trị doanh nghiệp, về thị trường, hệ thống phân phối tiêu thụ... Đòi hỏi khắc nghiệt từ thương trường buộc những người nông dân ngày nay phải chuyển từ tư duy “làm ra nhiều nông sản” sang “làm ra nhiều giá trị từ nông sản”, với chất lượng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng.
Người nông dân cần được giải phóng gánh nặng bằng kiến thức của người kinh doanh. Đào tạo nghề nông nghiệp, tập trung nâng cao giá trị sản xuất ngành trồng lúa, đào tạo nghề phi nông nghiệp để chuyển nghề và tác động tích cực trở lại cho nông nghiệp, nông thôn... là những cách thức giúp đòn gánh kể trên của người nông dân được cân bằng.
Doanh nhân hóa nông dân ĐBSCL phải được diễn ra trong không gian của nông thôn đồng bằng, trong những đặc thù của nông nghiệp, nông dân. Cần đưa thương hiệu gạo ĐBSCL vào chương trình thương hiệu quốc gia để quảng bá. Một nhãn hiệu “made in Mekong Delta” cho lúa gạo đồng bằng là cách tiếp cận hiệu quả với thị trường lúa gạo thế giới, cũng chính là tài sản - thương hiệu chung cho các doanh nghiệp kinh doanh gạo xuất khẩu. 
“Đảm bảo cho nông dân lãi 30%”
Điều này chắc chắn cần được thực thi bằng bài toán kinh tế nhiều hơn là quyết tâm chính trị. Thời gian qua, một số cơ quan chức năng địa phương đã lấy giá lúa thời điểm trừ “chi phí đầu vào” theo cách tính riêng của mình để công bố mức lãi 30-40% của nông dân như một kiểu báo cáo thành tích.
Nhưng ai cũng biết để tạo giá trị cho một sản phẩm như lúa gạo phải bao gồm cả “hao mòn” giá trị đất đai, công cụ lao động, sức khỏe - sức lao động của người nông dân trong môi trường sản xuất nông nghiệp hiện tại (sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu...). Chắc chắn còn nhiều “chi phí” đầu vào đang bị bỏ sót trong hạch toán giá thành hạt lúa với góc độ một ngành sản xuất hàng hóa.
Theo kết quả nghiên cứu về “Chuỗi giá trị ngành hàng lúa gạo” của Viện Nghiên cứu phát triển ĐBSCL, về lý thuyết, quy mô sản xuất lúa từ 3ha/người trở lên mang lại lợi nhuận tối ưu. Nhưng với đặc thù sản xuất manh mún hiện nay, bình quân chỉ khoảng 0,4ha/hộ thì nông dân không làm giàu được. Theo tính toán, kết quả của “30% lợi nhuận” được giữ lại cho người nông dân vừa qua (nếu có) còn thấp hơn mức thu nhập 1 USD/người/ngày. Chuỗi giá trị lúa gạo hiện nay quá nhiều nấc mà lại quá ít giá trị gia tăng, người nông dân không được hưởng lợi bao nhiêu từ sự gia tăng đó.
Cần nói ngay rằng những mô hình “cánh đồng mẫu lớn”, “công ty cổ phần nông nghiệp” mới chỉ cho thấy tầm quan trọng của việc nâng cao giá trị các công đoạn làm ra hạt lúa (giống, kỹ thuật, tổ chức sản xuất, tác động chính sách đầu vào).
“Chuỗi giá trị” quan trọng hơn, cần sự tác động tích cực hơn lại đang nằm ở các khâu từ hạt lúa trên đồng ruộng đến hạt gạo hàng hóa trên thương trường (chống thất thoát sau thu hoạch, kho chứa, xay xát, đặc biệt là kinh doanh xuất khẩu gạo). Nên ngày càng thấy những tiếng nói bức xúc hơn về việc phải liên kết chuỗi giá trị lúa gạo, liên kết vùng ĐBSCL một cách thật sự mà trọng tâm là “vành đai lúa” gồm khoảng 30 huyện nằm ở các tỉnh trọng điểm gồm An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp và một phần các tỉnh còn lại trong vùng.
Song song là đổi mới toàn diện cơ chế xuất khẩu gạo – hiện là khâu cuối cùng đang tác động mạnh mẽ vào “túi tiền” của người nông dân - trong điều kiện cạnh tranh gay gắt khi xuất hiện doanh nghiệp nước ngoài vào làm ăn từ năm 2012. Nên từ “chén cơm đầy” đến “chén cơm ngon”, người nông dân ĐBSCL không thể một mình đi hết chặng đường.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

"Tính cách người Việt theo vùng miền"

Thảo luận về "Văn hoá & tính cách con người Việt theo vùng miền" trên  Trái tim Việt Nam online . Người bắc thường ăn nói nhẹ nhàng, kín đáo, thường hay suy nghĩ sâu xa. Người miền trung thì mọc mạc, chất phác lại hay có tính cục bộ. Người miền nam thì phóng khoáng cởi mở, dễ gần.Dân miền Bắc thường thể hiện mình qua lời nói, trong bất cứ tình huống nào họ cũng đều phải nói cho được. Dân miền Trung thường thể hiện mình qua thái độ, cử chỉ, còn miền Nam thì thể hiện qua phong cách. Nói chung dân Bắc-Trung-Nam đều diễn tuồng cả, cho nên lời nói lúc thì nhẹ nhàng điềm đạm, lúc lại gắt gỏng chua ngoa, thái độ có lúc thì đằm thắm, khi thì thì lại khinh bạc, phong cách thì có lúc phóng khoáng lúc lại dè dặt... Ấn tượng bên ngoài là như thế nhưng có khi bạn cũng thấy là chẳng ai tranh cãi lý luận lại người Trung, thái độ cử chỉ của dân Bắc cũng có thể khiến bạn dè chừng, và lời nói hay thái độ của dân Nam cũng khiến bạn chạy dài... Muốn kiểm chứng thì bạn cứ bỏ ra ...

ART NUDE PHOTOS của Dương Quốc Định

Quên những bộn bề lo toan giá vàng lên xuống, giá lúa, cá tra giảm, chuyện nhà khoa học phải nói dối ... để  ngắm ảnh các em xinh đẹp. Và nếu như kết quả nghiên cứu khoa học của một bà đầm Đức  là khoa học  (không như ta nói dối nhiều quá):  DÒM VÚ PHỤ NỮ TĂNG TUỔI THỌ     (Blog này đã từng có bài, nằm trong nhóm truy cập nhiều nhứt, có lẽ nhiều người đã luyện tập?) thì quý ông cũng nên tập thể dục con mắt một tí nhé. Xin mượn mấy tấm ảnh của nhà nhiếp ảnh Dương Quốc Định làm  dụng cụ luyện tập, ai có điều kiện thì xài hàng thật. Bộ sưu tập những bức ảnh khỏa thân và bán khỏa thân nghệ thuật của nhiếp ảnh gia trẻ Dương Quốc Định. Rất nhiều ảnh trong bộ sưu tập này đã đoạt những giải thưởng quốc tế uy tín. Cảm ơn tác giả đã chia sẻ tác phẩm trên internet. Mời bạn xem qua phần thể hiện bộ sưu tập trên PPS của chúng tôi. Link PPS:  http://vn.360plus.yahoo.com/nns-nguyennamson/article?new=1&mid=112 Chân dung Dương Quốc Địn...

Nhớ Cần Thơ phố

Trần Hữu Hiệp B áo Dân Việt So với Thăng Long - Hà Nội ngàn năm văn hiến, cố đô Huế trầm tư hay Sài Gòn phố nhộn nhịp, thì Cần Thơ phố mang đậm đặc trưng sông nước miệt vườn. Nơi đó, hàng ngày, người Tây Đô vẫn đang sống cuộc đời bình dị. Nhớ thời học phổ thông, nhà tôi chỉ cách trung tâm Cần Thơ 20 Km, nhưng mãi đến năm 15 tuổi, lần đầu tiên mới được đến Cần Thơ cùng đội học sinh giỏi của Trường cấp III Ô Môn dự thi. Đêm, mấy thằng nhà quê lang thang, lạc đường trên phố Hòa Bình, thời đó là một  đại lộ mênh mông trong mắt nhìn bọn trẻ nhà quê chúng tôi. Ký ức Cần Thơ phố trong tôi một thời còn vang qua giọng ngâm của ai trong đêm tĩnh lặng nơi con hẻm nhỏ, bài thơ Tình trắng của Kiên Giang – Hà Huy Hà: “Cần Thơ, ơi hỡi Cần Thơ/Bóng dáng ngày xanh phủ bụi mờ/Ai nhặt giùm tôi bao kỷ niệm” … Và thơ tôi, tuổi học trò: “Ai đặt tên em tự bao giờ/Người đời hai tiếng gọi Cần Thơ/Mỗi lúc đi xa ta nhớ quá/Gặp lại hình em tron...