Thứ ba, 12-03-2013 | 08:26:16 GMT+7
Một thiếu sót đáng kể là BLDS năm 2005 chỉ quy định về 13 loại hợp đồng dân sự thông dụng. Trong khi đó, còn hàng chục loại hợp đồng dân sự rất thông dụng khác chưa được đề cập hoặc không được chỉ rõ trong BLDS.
BLDS thiếu chặt chẽ vô tình tiếp tay cho những kẻ giao dịch lật lọng, bội ước, thậm chí phạm tội...
Chưa đạt “mực thước”
TS Trần Thị Huệ - Trường Đại học Luật Hà Nội cho rằng, các quy định về hợp đồng trong BLDS 2005 phải là chuẩn mực pháp lý cho các DN, cá nhân ứng xử khi tham gia các quan hệ xã hội trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, quá trình thực hiện và áp dụng những năm qua cho thấy có một số quy định chưa cụ thể, thiếu sự thống nhất trong hệ thống pháp luật nói chung nên đã có nhiều ảnh hưởng đến tính khả thi của BLDS và hiệu quả đối với các phán quyết của tòa án nhân dân các cấp khi giải quyết các tranh chấp.
Cùng quan điểm này, LS Trương Thanh Đức – Phó TGĐ Ngân hàng TMCP Hàng Hải đưa ra dẫn chứng, khoản 2, Điều 401 quy định “Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Tức là, bộ luật không quy định hợp đồng sẽ bị vô hiệu nếu như vi phạm về hình thức, nhưng vì quy định không rõ ràng, cho nên trên thực tế rất nhiều trường hợp đã bị Toà án tuyên vô hiệu chỉ vì vi phạm về hình thức.
Ngoài ra, BLDS thiếu chặt chẽ vô tình tiếp tay cho những kẻ giao dịch lật lọng, bội ước, thậm chí phạm tội, bằng quy định bắt buộc phải công chứng, bắt buộc phải đăng ký thế chấp nhà đất, nhưng lại vô giá trị pháp lý trong nhiều trường hợp. Trong khi đó, hầu hết mọi người đều hiểu nhầm, dẫn đến tuyên mọi hợp đồng thế chấp nhà đất nếu không công chứng hoặc không đăng ký thế chấp thì đều vô hiệu, dù không hề có liên quan đến bên thứ ba.
Không ít quy định trong Luật Thương mại năm 2005 có sự trùng lắp không cần thiết so với các quy định của BLDS năm 2005, như các quy định về hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng đại diện, hợp đồng thuê hàng hóa... Theo PGS TS Chu Hồng Thanh - Trọng tài viên VIAC, BLDS và Luật Thương mại có sự trùng lặp nhưng lại không thống nhất. Ví dụ, mức phạt vi phạm và mối liên hệ giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại được quy định tại Điều 422 BLDS và các điều 301 và 307 Luật Thương mại. Quy dịnh về chấm dứt hợp đồng giữa BLDS và Luật Thương mại cũng có nhiều điểm mâu thuẫn nhau. Điều này gây thiệt hai một cách vô lí cho bên bị vi phạm. Trong khi, quy định của Luật Thương mại trường hợp này vừa phù hợp với thực tiễn, vừa phù hợp với thông lệ quốc tế.
Và gây... khó hiểu
Theo GS TS Nguyễn Thị Mơ - Trọng tài viên VIAC, BLDS còn một số điều chung chung, chưa rõ và dễ gây tranh chấp cho các DN mà điển hình là Điều 390 khoản 1. Điều này quy định: “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể”. Tuy nhiên, BLDS không giải thích và cũng không hướng dẫn thế nào là bên đã được xác định cụ thể và thế nào là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng. Sự khó hiểu này khiến DN gửi đề nghị giao kết hợp đồng (còn gọi là gửi chào hàng cố định hoặc gửi đặt hàng cố định) thường dễ bị nhầm lẫn với gửi báo giá hay gửi lời mời chào hàng. Một đề nghị về việc giao kết hợp đồng với một báo giá hay hỏi hàng có sự khác biệt đáng kể. Việc giao kết hợp đồng được gửi đích danh cho một DN, hoặc một số DN. Còn báo giá hay hỏi hàng không gửi đích danh cho ai cả, nó không ràng buộc người báo giá hay hỏi hàng. Bà Mơ đề nghị, để giúp DN hiểu rõ mục đích và bản chất của đề nghị giao kết hợp đồng, khái niệm này cần được viết một cách rõ ràng và chính xác.
Một số quy định chưa cụ thể, thiếu sự thống nhất trong hệ thống pháp luật nói chung nên đã có nhiều ảnh hưởng đến tính khả thi của BLDS.
|
Ông Ngô Việt Hòa - Cty luật Russin Vecchi nhận xét, BLDS hiện hành chưa có quy định về nghĩa vụ áp dụng các biện pháp cần thiết của bên bị vi phạm hợp đồng nhằm hạn chế thiệt hại phát sinh từ hành vi vi phạm hợp đồng. Chính vì vậy, BLDS cần quy định bên bị vi phạm trong hợp đồng phải có nghĩa vụ áp dụng các biện pháp cần thiết một cách hợp lý để hạn chế thiết hại do hành vi vi phạm hợp đồng của bên khác. Trong trường hợp bên bị vi phạm không áp dụng các biện pháp hạn chế thiệt hại, bên đó sẽ không được quyền yêu cầu bồi thường cho phần thiệt hại lẽ ra phải được ngăn chặn, hạn chế. Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại thể hiện tinh thần hợp tác trong thực hiện hợp đồng và cũng để bảo vệ một cách hợp lý quyền và lợi ích của các bên trong hợp đồng.
BLDS hiện đang quy định về bồi thường thiệt hại hiện theo hướng bồi thường thiệt hại thực tế phát sinh từ hành vi vi phạm hợp đồng. BLDS chưa công nhận quyền thỏa thuận về mức bồi thường định trước của các bên trong hợp đồng. Ông Hoà cho rằng, để đảm bảo sự linh hoạt và tôn trọng tối đa quyền tự do thỏa thuận chính đáng của các bên, BLDS cần bổ sung quy định công nhận về thỏa thuận bồi thường định trước. Ngoài ra, quy định về bồi thường định trước có thể góp phần giảm gánh nặng tài chính cho các bên trong việc xác định thiệt hại, đẩy nhanh quá trình giải quyết tranh chấp.
Bá Tú
Nhận xét
Đăng nhận xét