Trần Hữu
Hiệp
Điểm yếu của nhân
lực vùng ĐBSCL đã được nhận diện từ nhiều năm qua. Cùng với hạ tầng giao thông,
thủy lợi, phát triển nguồn nhân lực được xác định là khâu đột phá trong phát
triển vùng.
Không thể phủ nhận những chuyển biến tích cực trong giáo dục-đào tạo (GDĐT) và dạy nghề vùng ĐBSCL thời gian gần đây, góp phần nâng cao dân trí, chất lượng nhân lực. Nhiều chương trình đầu tư kiên cố hóa trường lớp học, liên kết vùng trong đào tạo do BCĐ Tây Nam Bộ phối hợp các bộ, ngành Trung ương, địa phương triển khai thực hiện thời gian qua. Hơn 500 tiến sĩ, thạc sĩ thuộc chương trình Mê Kông 1.000 được đào tạo ở nước ngoài là kết quả nỗ lực của trường đại học Cần Thơ cùng với các tỉnh, tuy còn những bất cập, nhưng đã trở thành điểm sáng trong vùng. Song, nhu cầu nhân lực, đặc biệt là lao động cho khu vực kinh tế, lao động trong nông nghiệp, nông thôn đang đặt ra bài toán khó.
Không thể phủ nhận những chuyển biến tích cực trong giáo dục-đào tạo (GDĐT) và dạy nghề vùng ĐBSCL thời gian gần đây, góp phần nâng cao dân trí, chất lượng nhân lực. Nhiều chương trình đầu tư kiên cố hóa trường lớp học, liên kết vùng trong đào tạo do BCĐ Tây Nam Bộ phối hợp các bộ, ngành Trung ương, địa phương triển khai thực hiện thời gian qua. Hơn 500 tiến sĩ, thạc sĩ thuộc chương trình Mê Kông 1.000 được đào tạo ở nước ngoài là kết quả nỗ lực của trường đại học Cần Thơ cùng với các tỉnh, tuy còn những bất cập, nhưng đã trở thành điểm sáng trong vùng. Song, nhu cầu nhân lực, đặc biệt là lao động cho khu vực kinh tế, lao động trong nông nghiệp, nông thôn đang đặt ra bài toán khó.
Vươn lên từ vùng trũng
ĐBSCL có 17,3
triệu dân; trong đó, hơn 10,3 triệu lao động trong độ tuổi. Toàn vùng hiện có
17 trường đại học, gồm 11 trường đại học công lập và 6 trường ngoài công lập;
có 26 trường cao đẳng và 30 trường trung cấp chuyên nghiệp; có 12 trường cao
đẳng nghề, 38 trường trung cấp và 129 trung tâm dạy nghề. Bên cạnh thực trạng
nghèo, thì ĐBSCL còn là “vùng trũng” trong bản đồ GDĐT của cả nước. Toàn vùng
mới đạt tỉ lệ 167 sinh viên/vạn dân so cả nước đạt 277 sinh viên/vạn dân. Hiện
có khoảng một phần tư dân số đang học tại một cơ sở GDĐT và dạy nghề; song, tỉ
lệ lao động qua đào tạo còn thấp, chỉ khoảng 36% và lao động qua đào tạo nghề
mới đạt 28% là một trong những vùng có tỉ lệ thấp của cả nước.
Cần khẳng định,
nhiều chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng trường học, xoá đói giảm nghèo, dạy
nghề, giải quyết việc làm, đào tạo nghề lao động nông thôn, tín dụng chính
sách, xây dựng nông thôn mới, ... đã được triển khai có hiệu quả. Nhưng cũng
cần thẳng thắn nhìn nhận, còn nhiều bất cập trong cơ chế, chính sách và thực
thi. Trong khi cả nước và từng tỉnh đã xây dựng chiến lược nguồn nhân lực quốc
gia và địa phương, thì đến nay vẫn chưa có một chiến lược cho từng vùng, miền. Đào
tạo nghề nhưng chưa gắn được với tạo việc làm bền vững, có tình trạng “học nghề
cũng ngồi nhầm lớp”. Một số nơi, việc thực thi chính sách rập khuôn, cứng nhắc
trong áp chuẩn nghèo và chính sách đào tạo dẫn đến một số hệ luỵ.
Cuộc chiến chống
lại nghèo khó ở vựa lúa gạo, thuỷ sản và vươn lên thoát khỏi vùng trũng về chất
lượng nhân lực rất cần được tăng tốc với cách làm hiệu quả hơn. Cần có giải
pháp khác nhau đối với các nhóm nghèo khác nhau (nghèo trạng thái động, trạng
thái tĩnh và các hàm ý chính sách, nghèo “kinh niên” và nghèo “nhất thời”) để
có chính sách khuyến khích trong GDĐT phù hợp. Trong đó, phải khắc phục cho
được tư tưởng “làm chơi ăn thiệt”, “lấy táu đong lúa chứ
không đong chữ”. Mỗi người dân phải thực sự cảm cái nhục
nghèo và thất học để phấn đấu vươn lên. Nghèo khó và tính chất nhân lực ở vựa
lúa miền Tây có “cái chung”, nhưng cũng có “cái riêng” khác nhiều nơi, nên cần
có cơ chế, chính sách riêng, phù hợp.
Liên kết vùng đào tạo nhân lực
Từ xuất phát điểm
thấp, nhiều khó khăn, TNB đã “đi tiên phong” trong việc chủ động phối hợp với
các trường ĐH, cơ sở đào tạo nhằm “tăng tốc” trong cuộc “rượt đuổi” các vùng,
miền khác về phát triển nhân lực. Cơ quan này đã chủ động phối hợp với Bộ
GDĐT xây dựng chính sách ưu tiên cho con em đồng bào 22 huyện nghèo vùng biên
giới, hải đảo trong vùng ĐBSCL (không thuộc 62 huyện nghèo). Các đề án đào tạo
nguồn nhân lực chuyên ngành cho Tây Nam Bộ của các trường đại học (ĐH) Kiến
trúc TPHCM, ĐH Kinh tế TPHCM, ĐH Y dược TPHCM và Cần Thơ đã được xây dựng công
phu, áp dụng từ 4 năm qua. Các hoạt động liên kết đào tạo không chỉ tạo điều
kiện cho con em miền Tây được “rộng đường” vào ĐH mà còn phải đảm bảo chất
lượng, giữ “thương hiệu” cho các trường, gắn chặt với địa phương trong việc xác
định nhu cầu, trách nhiệm bố trí, sử dụng các em sau khi học.
Tuy nhiên, Nỗ lực
liên kết vùng trong GDĐT của Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ và các tỉnh, các trường có
thể chỉ mới là hoạt động “kết nối”, “lấp khoảng trống” do các qui định hành
chính tạo ra, nhưng bước đầu cũng có tác dụng thiết thực hỗ trợ ĐBSCL tăng tốc
để nâng cao chất lượng nhân lực. Thực tế đòi hỏi cần phải quan tâm lồng ghép,
kết nối, tập hợp để tạo ra chuyển biến tốt hơn từ nhiều chương trình, tạo ra
cuộc vận động lớn, thiết thực và hiệu quả hơn. Về lâu dài, việc đào tạo nhân
lực cho miền Tây cần chính sách căn cơ hơn. Cùng với Chiến lược nguồn nhân lực
quốc gia và các tỉnh, rất cần một Chiến lược nguồn nhân lực cho vùng ĐBSCL. Qui
hoạch phát triển hệ thống các trường ĐH, cao đẳng, trường nghề, trường phổ
thông… phải dựa trên chiến lược này. Cần “hướng cầu” là thị trường lao động,
nhu cầu sử dụng nhân lực của doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị trong vùng làm động
lực phát triển hơn là chủ yếu dựa trên năng lực chuyên môn, cơ sở vật chất của
các trường.
Những “cơ chế đặc
thù” trong GDĐT ưu tiên cho vùng khó khăn như ĐBSCL là cần thiết để tăng tốc,
đuổi kịp các vùng, miền khác. Nhưng vùng này cần phải đi lên bằng chính “đôi
chân” của mình chứ không thể dựa vào sự hỗ trợ “đặc thù”. Hệ thống GDĐT từ mầm
non, phổ thông, cao đẳng, ĐH đến các trường nghề, hệ thống giáo dục xã hội trong
vùng cần được quan tâm đầu tư để đủ sức tạo ra “sản phẩm nhân lực” tốt hơn, đáp
ứng tốt hơn nhu cầu xã hội, chứ không phải trông chờ vào chính sách ưu tiên
“điển sàn, điểm chuẩn” hay tăng chỉ tiêu đào tạo, chỉ tạo ra “lợi thế ảo”. Hoạt
động liên kết vùng ĐBSCL trong phát triển nguồn nhân lực cần được tiếp tục tăng
cường về chất; nội dung, phương thức phù hợp hơn nữa. Phải thật sự gắn kết được
lợi ích, sự tham gia tích cực của doanh nghiệp và đơn vị sử dụng lao động trong
đào tạo nhân lực của vùng, kèm theo là các chính sách khuyến khich thích hợp.
Liên kết vùng
trong phát triển nguồn nhân lực không chỉ là cách làm, yêu cầu đặt ra mà còn là
mệnh lệnh của phát triển vủng trong thời kỳ mới.
Nhận xét
Đăng nhận xét