|
Trung Chánh
|
(TBKTSG) - Chính phủ vừa đồng ý bổ sung Tổng công ty
Lương thực miền Bắc (Vinafood 1) cùng Tổng công ty Lương thực miền Nam
(Vinafood 2) là hai đầu mối được phép tham gia đàm phán, giao dịch trực tiếp ở
những thị trường tập trung. Tuy nhiên, theo một số nhà chuyên môn, điều này vẫn
chưa đủ để có đột phá cho ngành lúa gạo.
XK gạo |
Chưa thể tạo
ra sự đột phá
Trao đổi với TBKTSG, ông Lâm Anh Tuấn, Giám đốc Công
ty TNHH Thịnh Phát - doanh nghiệp hội viên của Hiệp hội Lương thực Việt Nam
(VFA), cho rằng về nguyên tắc bổ sung Vinafood 1 cùng Vinafood 2 đi đàm phán ở
những thị trường tập trung cũng là hợp lý.
Tuy nhiên, theo ông Tuấn, trong kinh doanh thương mại,
có nhiều người bán thì người nhập khẩu sẽ “làm eo”, không có lợi gì cho người
bán. “Đưa 1-2 đầu mối hay nhiều đầu mối không thành vấn đề nhưng càng đưa nhiều
càng rối, khó thống nhất với nhau về chỉ đạo điều hành”, ông Tuấn cho biết.
Một yếu tố khác được ông Tuấn đưa ra để lý giải cho việc
không nên đưa quá nhiều đầu mối đi giao dịch ở thị trường tập trung, đó là việc
thể hiện năng lực và uy tín của quốc gia. “Nếu như đưa một đơn vị nhỏ như đợt rồi
mà “gánh” 50.000-100.000 tấn gạo cho Philippines (lần Việt Nam giành được hợp đồng
bán 800.000 tấn cho Philippines hồi tháng 4-2014), ký thời điểm đó giá cũng
không phải thấp nhưng sau đó giá trong nước biến động, lỗ cả 1.000 đồng/ki lô
gam, đơn vị nhỏ nhắm có thực hiện được không? Nếu không thì chẳng những công ty
đó mà cả ngành gạo của Việt Nam cũng mất uy tín”, ông Tuấn nói.
Nêu quan điểm cá nhân của mình với TBKTSG,
ông Trần Hữu Hiệp, Vụ trưởng Vụ Kinh tế, Ban chỉ đạo Tây Nam bộ, cho biết đối với
những hợp đồng tập trung cấp chính phủ chỉ nên có một số đầu mối, không nên có
quá nhiều đầu mối vì sẽ dẫn đến những khó khăn, thậm chí là thua thiệt.
Theo ông Hiệp, xuất khẩu gạo là ngành
kinh doanh có điều kiện, một khi doanh nghiệp đáp ứng đủ điều kiện thì nên cho
xuất khẩu, không phân biệt hình thức sở hữu là Nhà nước hay tư nhân vì trong
Nghị định 109 (Nghị định 109/2010/NĐ- CP về kinh doanh xuất khẩu gạo) không có
hạn chế sở hữu nhà nước hay tư nhân, mà chỉ quy định về điều kiện. “Riêng đối với
các hợp đồng cấp chính phủ thì nên có vai trò của các cơ quan nhà nước, đặc biệt
là vai trò của Bộ Công Thương và một vài đầu mối nhưng các đầu mối đó là ai là
một chuyện khác”, ông Hiệp cho biết.
Cũng theo ông Hiệp, “điều quan trọng là phương thức quản
lý sao cho đầu mối không phải là đặc quyền, đặc lợi mà phải thật sự là đại diện
cho doanh nghiệp”.
Nên mời các doanh nghiệp tư nhân
TS. Nguyễn Ngọc Đệ,
Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển ĐBSCL (Đại học Cần Thơ), cho rằng
việc tăng cường Vinafood 1 để cùng Vinafood 2 đảm đang thị trường xuất khẩu gạo
tập trung với hy vọng giữ được thị trường, nâng cao hiệu quả... thì e là ta
đã kỳ vọng quá lớn vào nhóm các doanh nghiệp nhà nước. Thay vào đó, chỉ cần
chọn một số doanh nghiệp mạnh để giao cho họ “quán xuyến” các thị trường này
hiệu quả sẽ cao hơn. Và tốt nhất là nên mời thêm một số doanh nghiệp tư nhân
tham gia thị trường để có sự so sánh, đánh giá hiệu quả một cách khách quan
và chính xác hơn.
|
Trong khi đó, ông Nguyễn Ngọc Đệ, Phó trưởng khoa Phát
triển nông thôn (trường Đại học Cần Thơ), cho rằng đưa Vinafood 1 vào danh sách
đầu mối đi giao dịch ở những thị trường tập trung cũng không tạo ra được đột
phá gì cho ngành lúa gạo.
Theo ông Đệ, nên có nhiều doanh nghiệp tham gia giao dịch
vào thị trường tập trung sẽ tốt hơn. “Theo tôi, nên có thêm những doanh nghiệp
khác nữa, chứ chỉ có hai đơn vị đó (Vinafood 1 và Vinafood 2) thì các doanh
nghiệp khác sẽ thiệt thòi”, ông nói.
Thiếu động lực để liên kết
GS.TS. Võ Tòng Xuân, Hiệu trưởng trường Đại học Nam Cần
Thơ, chuyên gia ngành nông nghiệp Việt Nam, cho rằng Tổng công ty Lương thực
(Vinafood) không nên trực tiếp tham gia xuất khẩu, mà chỉ nên là đầu mối tham
gia tìm kiếm, mở rộng thị trường. Sau đó, Vinafood đứng ra kết nối với những
công ty lương thực ở các tỉnh ĐBSCL để các đơn vị đó ký kết làm ăn với nhau và
Vinafood được chia “huê hồng”.
Theo ông Xuân, các công ty lương thực ở các tỉnh ĐBSCL
có nông dân, có vùng nguyên liệu để sản xuất. Trong khi đó, Vinafood dù ở miền
Nam hay miền Bắc đều không có nông dân, không có vùng nguyên liệu, thậm chí
ngay cả Vinafood 1 còn phải mua gạo từ miền Nam. “Như vậy, tại sao chỉ có họ mới
được giao dịch xuất khẩu?”, ông Xuân đặt vấn đề.
Theo ông Xuân, ở Nhật Bản, tổng công ty của họ không
xuất khẩu trực tiếp mà chỉ làm đại diện cho công ty con nhằm mục đích gắn kết
công ty con với đối tác ở nước ngoài rồi “ăn huê hồng” thôi.
Theo ông Tuấn của Thịnh Phát, bản thân người được cử
làm đại diện đi đàm phán (Vinafood 2 và Vinafood 1) về cũng đưa cho tổ điều
hành phân giao chỉ tiêu xuất khẩu cho các đơn vị khác cùng làm. Quy chế thực hiện
các hợp đồng xuất khẩu gạo tập trung của VFA cũng nêu rõ: “Doanh nghiệp trúng
thầu hoặc được chỉ định để ký hợp đồng tập trung được xuất khẩu trực tiếp tối
thiểu 30% số lượng hợp đồng. Số còn lại hiệp hội phân giao cho các doanh nghiệp
thành viên có năng lực khác ủy thác xuất khẩu theo nguyên tắc dân chủ, công
khai”.
Tuy nhiên, theo ông Xuân, dù có phân giao chỉ tiêu xuất
khẩu cho các doanh nghiệp thành viên khác (sau khi trúng thầu) cũng hạn chế sự
phát triển của họ vì vẫn phải thông qua VFA và thực chất quyền lực phần lớn nằm
trong tay của Vinafood.
Một doanh nghiệp xuất khẩu gạo lớn ở ĐBSCL (không muốn
nêu tên), cho rằng chính cơ chế xuất khẩu phải thông qua một đầu mối đi đàm
phán ở những thị trường tập trung đã làm hạn chế khả năng mở rộng thị trường của
họ và khả năng phát triển ngành lúa gạo Việt Nam. “Chúng tôi đáp ứng được Nghị
định 109, chúng tôi phải được tự do xuất khẩu chứ”, vị này nói.
Xuất khẩu tập trung hay tiểu ngạch?
Theo báo cáo của Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA)
tính đến cuối tháng 8-2014, xuất khẩu gạo của doanh nghiệp hội viên đơn vị
này đạt hơn 4,2 triệu tấn, trị giá FOB đạt trên 1,8 tỉ đô la Mỹ, lần lượt giảm
9,1% về lượng và 8,5% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái.
Riêng trong tháng 8-2014, xuất khẩu đạt trên 627.000
tấn, trị giá FOB đạt trên 270 triệu đô la Mỹ, trong đó, xuất khẩu sang
Philippines - một trong những thị trường tập trung - chiếm gần 24%, tăng trên
211% so với cùng kỳ.
Nhiều doanh nhân ngành gạo ở ĐBSCL đặt vấn đề, tại
sao Trung Quốc có lượng gạo nhập khẩu từ Việt Nam rất lớn nhưng họ không chịu
tác động bởi thị trường tập trung mà chỉ nhập tiểu ngạch? Thậm chí Trung Quốc
tổ chức cả mạng lưới thương lái cạnh tranh thu mua lúa tận vùng nguyên liệu của
các doanh nghiệp Việt Nam.
Sản lượng gạo xuất khẩu theo đường tiểu ngạch hàng
năm ước trên 1,5 triệu tấn. Đầu mỗi vụ thu hoạch các địa phương khuyến khích
xuất khẩu kể cả tiểu ngạch để tránh ứ đọng lúa hàng hóa trong dân. Tới cuối vụ,
nguồn nguyên liệu đã cạn doanh nghiệp xuất khẩu chính ngạch thiếu hàng phải
nâng giá thu gom, gây lỗ lã... Vòng luẩn quẩn đó khiến doanh nghiệp ngành gạo
không thể lớn lên được do thiếu tự chủ.
N.T
|
Nhận xét
Đăng nhận xét