Báo Nhân Dân, Chủ nhật, 13/10/2013 - 10:29 PM (GMT+7)
Ðể gây ấn tượng với người tiêu dùng và nâng cao lợi thế cạnh tranh của trái cây vùng sông nước, miệt vườn Nam Bộ, nhiều địa phương ở đồng bằng sông Cửu Long (ÐBSCL) đã đầu tư xây dựng thương hiệu, các chứng nhận tiêu chuẩn an toàn chất lượng trái cây (VietGAP, GlobalGAP). Thế nhưng, đầu ra cho trái cây vẫn rất bấp bênh.
Thương hiệu thiếu bền vững
Theo Viện Cây ăn quả miền nam, ÐBSCL có tổng diện tích cây ăn trái gần 300 nghìn ha, cho tổng sản lượng hơn ba triệu tấn/năm. Trong đó có nhiều loại trái cây đặc sản đã từng làm nên thương hiệu như: Bưởi năm roi, cam sành Tam Bình, chôm chôm Tích Khánh (tỉnh Vĩnh Long), xoài cát Hòa Lộc (Cao Lãnh, tỉnh Ðồng Tháp), thanh long chợ gạo (tỉnh Tiền Giang), chuối... Với lợi thế về điều kiện tự nhiên thuận lợi, khí hậu, thổ nhưỡng thích hợp cùng với phù sa hai con sông Tiền và sông Hậu bồi đắp quanh năm, ÐBSCL trở thành "vựa trái cây" của cả nước. Theo thống kê, nơi đây cung cấp hơn 70% sản lượng trái cây cho cả nước và xuất khẩu. Tuy nhiên, việc sản xuất và tiêu thụ trái cây trong vùng thời gian qua không ổn định. Nhà vườn thường xuyên gặp cảnh "trúng mùa, rớt giá", trong khi các doanh nghiệp xuất khẩu trái cây thì kêu thiếu nguyên liệu. Mặc dù có nhiều tiềm năng và lợi thế nhưng trái cây Việt Nam nói chung và ÐBSCL nói riêng chỉ tiêu thụ ở thị trường trong nước, hoặc bám víu vào thị trường xuất khẩu dễ tính như Trung Quốc, nhưng cũng rất bấp bênh.
Lão nông Phạm Văn Ðẹp ở xã cù lao An Bình (Long Hồ, Vĩnh Long) cho biết, vụ chôm chôm vừa rồi năng suất khá nhưng giá bán lại rất thấp. Thương lái đến thu mua tại vườn với giá chỉ từ ba đến bốn nghìn đồng/kg đối với chôm chôm thường. Nếu tính chi phí nhân công lao động, thuê mướn người hái chôm chôm thì bán hết vườn cũng chưa thể huề vốn. Bởi vậy, không riêng ông Ðẹp mà nhiều nhà vườn trồng chôm chôm ở cù lao An Bình treo bảng "cho vào vườn chôm chôm" để thu hút khách tham quan. Cù lao này còn là địa bàn tập trung diện tích trồng nhãn lớn nhất huyện Long Hồ và tỉnh Vĩnh Long, nhưng giá cả cũng bấp bênh, nông dân lắm phen trắng tay sau một vụ mùa lao động. Còn người trồng bưởi năm roi ở xã Mỹ Hòa, thị xã Bình Minh (Vĩnh Long) cũng than vãn: "Trước đây khi bưởi năm roi còn xuất khẩu mạnh thì giá cả cũng tăng đáng kể, nông dân phấn khởi cải tạo, chăm sóc vườn cây trái sum xuê. Nhưng mấy năm gần đây, chứng nhận GlobalGAP hết hạn mà Hợp tác xã bưởi năm roi Mỹ Hòa vẫn chưa có kinh phí để tái chứng nhận nên bưởi đặc sản bị bán cào bằng với giá bưởi thường. Ðó là chưa kể đến tình trạng sâu bệnh hại trái, ảnh hưởng đến năng suất và lợi nhuận của nhà vườn đáng kể". Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN và PTNT) Vĩnh Long Nguyễn Văn Liêm nhận định, việc sản xuất và tiêu thụ trái cây ở Vĩnh Long và cả ÐBSCL thời gian qua thiếu bền vững. Diện tích sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, không tập trung cho nên khó xây dựng được vùng chuyên canh cây ăn quả chất lượng cao. Mặt khác, trình độ sản xuất cũng như áp dụng những tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, thu hoạch, sau thu hoạch của nhà vườn còn hạn chế. Ðiều này làm ảnh hưởng đến giá thành sản xuất tăng cao, sẽ giảm tính cạnh tranh với trái cây cùng loại của địa phương khác và nhất là trái cây nhập khẩu. Bên cạnh đó, các hợp tác xã cũng hoạt động không hiệu quả, do không có trình độ chuyên môn cho nên kinh doanh thua lỗ, nông dân không mặn mà. "Ðiển hình là Hợp tác xã bưởi năm roi Mỹ Hòa có 20 ha bưởi đạt chuẩn Global GAP, lúc đầu xuất khẩu rất tốt nhờ doanh nghiệp tư nhân Hoàng Gia đăng ký thương hiệu Bưởi năm roi Hoàng Gia. Nhưng chỉ được một thời gian, doanh nghiệp này làm ăn thua lỗ, xuất hàng đi nhưng không thu được nợ nên ngưng hoạt động. Từ đó, bưởi năm roi chỉ loay hoay bán ở thị trường trong nước, vào các siêu thị hay xuất ký gởi với số lượng nhỏ lẻ. Còn chứng nhận Global GAP chỉ có thời hạn một năm, nháy mắt một cái là hết, mà không có tiền tái đánh giá", ông Liêm nói.
Ông Hai Chiến (Nguyễn Văn Chiến), Chủ nhiệm HTX Thạnh Phước (Châu Thành, Hậu Giang) cho biết: Mất gần 10 năm đưa cây chanh không hạt từ nước ngoài về mới có thể lai tạo thành sản phẩm đặc trưng, có thị trường tiêu thụ ổn định. Chính những nông dân, HTX này đã góp phần đưa trái cây đến người tiêu dùng không chỉ trong nước mà còn xuất khẩu ra nước ngoài. Theo ông Hai Chiến, lúc đầu tìm thị trường tiêu thụ rất khó khăn, phải đi chào hàng từng siêu thị. Thông qua quy trình VietGAP, HTX cũng đã ký hợp tác sản xuất và tiêu thụ với hai công ty là Công ty The Fruit Republic (Hà Lan) thu mua để xuất khẩu và Công ty Cổ phần Nông trại Sinh thái (Ecofarm) ở Phú Quốc (Kiên Giang) tiêu thụ trong nước, nên không còn lo đầu ra. Thậm chí có nhiều công ty đặt vấn đề ký hợp đồng với số lượng lớn để xuất khẩu, nhưng hiện tại sản lượng chưa bảo đảm đủ đáp ứng nên không dám ký. "Tính ra trồng chanh không hạt cho thu nhập bình quân không dưới 300 triệu đồng/ha/năm, cho nên loại cây này không còn là "cây xóa nghèo" mà đã trở thành "cây làm giàu" của hàng trăm hộ dân ở địa phương"- Ông Hai Chiến khẳng định.
Tuy nhiên, chuyện sản xuất và tiêu thụ trái cây không phải lúc nào cũng gặp thuận lợi. Ðiệp khúc "trúng mùa, rớt giá", doanh nghiệp "bẻ kèo"... luôn là nỗi trăn trở của các nhà vườn. Ngay cả việc hợp tác sản xuất theo quy trình tiên tiến cũng gặp trục trặc. Năm 2012, hơn 40 ha bưởi năm roi của 45 nhà vườn ở xã Phú Hữu và Phú Tân (Châu Thành) được Công ty The Fruit Republic (Hà Lan) chuyển giao kỹ thuật canh tác và đứng ra công nhận sản phẩm đạt tiêu chuẩn Global GAP và được công ty trực tiếp ký kết hợp đồng thu mua sản phẩm bưởi Global GAP cho người dân. Tuy nhiên, khi thu hoạch, công ty mua với giá thấp hơn giá thị trường bên ngoài khoảng hai đến ba nghìn đồng/kg, nên nhà vườn rất thất vọng. Lý giải vấn đề này, ông Ngô Minh Long, Phó phòng NN và PTNT Hậu Giang cho rằng: Ðây là sự cố do thời tiết, bởi thời điểm đó bưởi bị bệnh sâu đục trái, nhà vườn phải phun xịt thuốc nhiều, dẫn đến dư lượng thuốc vượt quá mức cho phép nên công ty không dám mua. Hiện nay, dịch bệnh được khống chế, đồng thời khuyến khích bà con "trẻ hóa" vườn bưởi, cho nên việc hợp tác sản xuất bưởi theo quy trình Global GAP vẫn được công ty này duy trì. Về lâu dài, đây là điều kiện tốt để phát triển cây bưởi theo hướng chất lượng.
Bưởi năm roi được thu gom để đóng gói xuất khẩu tại HTX bưởi năm roi Mỹ Hòa.
Mở rộng liên kết vùng và tiêu thụ trái cây
Dự báo đến năm 2015, tổng nhu cầu nhập khẩu trái cây của thế giới sẽ vào khoảng 3,6 triệu tấn/năm, trong đó khoảng 2,6 triệu tấn là trái cây khu vực các nước nhiệt đới. Xuất khẩu trái cây tươi trên thế giới có xu hướng tăng, tốc độ tăng bình quân 5,4%/năm. Trong đó, trái cây sản xuất tại ÐBSCL tham gia thị trường xuất khẩu đến các thị trường chính là Trung Quốc, Xin-ga-po, Ðài Loan (Trung Quốc), Hồng Công (Trung Quốc), Nhật Bản, Hàn Quốc, Nga, Mỹ, Cam-pu-chia, Lào và các nước thuộc EU. Có thể nói, thị trường xuất khẩu các loại quả tươi có nguồn gốc nhiệt đới khá lớn song phải cạnh tranh quyết liệt với trái cây sản xuất tại Thái-lan và Ấn Ðộ, đặc biệt phải có giấy chứng nhận về chất lượng và đăng ký nguồn gốc xuất xứ hàng hóa. Ðối với thị trường trong nước trái cây ở ÐBSCL hiện được thu mua, phân phối và tiêu thụ rộng khắp trong cả nước, từ siêu thị, cửa hàng, chợ đầu mối, chợ địa phương. Ðặc biệt các tỉnh, thành phố lớn như: Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Ðà Nẵng là những nơi tiêu thụ trái cây lớn nhất.
Một thực tế là, mặc dù sản lượng trái cây của ÐBSCL rất dồi dào nhưng hầu hết là hàng "sô", còn hàng đạt chất lượng xuất khẩu chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Con số 10% tổng diện tích cây ăn trái, tức 300 ha đạt tiêu chuẩn Global GAP trên nhiều loại như bưởi năm roi, chôm chôm, thanh long, cam sành... thì diện tích tương ứng từng loại sẽ rất nhỏ. Mà để xuất khẩu thì đòi hỏi vùng nguyên liệu phải dồi dào, sản lượng lớn và ổn định. Theo đánh giá của Viện Cây ăn quả miền nam, 90% lượng trái cây của ÐBSCL được tiêu thụ trong nước, chỉ có 10% xuất khẩu, mà chủ yếu là bán sang Trung Quốc. Thị trường này rất lớn, tuy dễ tính nhưng cũng không ít rủi ro. Hiện nay, các thị trường lớn như Mỹ và châu Âu, Nhật Bản cũng đã chấp nhận cho các loại trái cây Việt Nam được nhập khẩu như thanh long, bưởi, chuối... Ðây là những thị trường vô cùng lớn, họ chấp nhận trả giá cao, sẽ thu về một lượng ngoại tệ đáng kể, nhưng đòi hỏi về tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm của họ cũng hết sức gắt gao.
Ông Nguyễn Văn Liêm cho rằng: Ðể phát triển bền vững thì nhà vườn trồng cây ăn trái ở miền Tây phải định hướng sản xuất theo GAP (thực hành nông nghiệp tốt). Ðiển hình là Vĩnh Long đang thực hiện dự án phát triển kinh tế vườn từ nay đến năm 2015, hỗ trợ đầu tư khôi phục và phát triển diện tích chuyên canh cây đặc sản theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobaGAP. Cụ thể là xây dựng 15 mô hình đối tượng bưởi năm roi và cam sành trồng theo hướng tập trung diện tích 75 ha tại các xã: Mỹ Hòa, Ðông Bình, Thuận An (thị xã Bình Minh), Ngãi Tứ, Bình Ninh (huyện Tam Bình). Ngoài ra, Trung tâm khuyến nông tỉnh còn hỗ trợ kinh phí cho Hợp tác xã bưởi năm roi Mỹ Hòa và cam sành Tam Bình tái đánh giá chứng nhận Global GAP vào cuối năm nay và năm 2014. Theo đó, ngoài diện tích 20 ha bưởi năm roi và năm ha cam sành thuộc mô hình để đánh giá chứng nhận Global GAP, thì tất cả các diện tích bưởi và cam trong vùng còn lại đều sản xuất theo tiêu chuẩn GAP nhưng không chứng nhận. Việc làm này nhằm giúp nhà vườn làm quen với quy trình sản xuất tiên tiến và an toàn. Nếu mô hình được đánh giá chứng nhận Global GAP cho hiệu quả tốt sẽ mở rộng chứng nhận trên các diện tích còn lại một cách dễ dàng. Cho thấy, việc định hướng sản xuất theo GAP cho các nhà vườn ở ÐBSCL là điều kiện cần và đủ cho chất lượng trái cây theo cung cách sản xuất hàng hóa lớn.
Qua tìm hiểu chúng tôi nhận thấy, mấu chốt của vấn đề sản xuất và tiêu thụ trái cây ở Nam Bộ thời gian qua là chính sách liên kết trong sản xuất và tiêu thụ trái cây. Với "liên kết bốn nhà", trên thực tế chỉ có ba nhà liên kết, còn doanh nghiệp là nhân tố quyết định thị trường và đầu ra của trái cây lại đứng ngoài cuộc. Mặt khác, trong lĩnh vực xuất khẩu trái cây, ít có doanh nghiệp lớn mà chỉ có một ít doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho nên năng lực cạnh tranh cũng như khai thác thị trường kém hiệu quả. Thực tế này, theo Viện Cây ăn quả miền nam, thời gian qua, chỉ có hơn 2,5% trên tổng sản lượng trái cây (ba triệu tấn) của nhà vườn được bán trực tiếp cho doanh nghiệp, còn lại hơn 97% là bán qua thương lái, trung gian. Cũng như cây lúa, hạt gạo, qua nhiều tầng nấc trung gian sẽ phát sinh nhiều chi phí, nông dân cũng bị giảm mất thu nhập. Vì thế, bên cạnh việc xây dựng thương hiệu, xây dựng vùng nguyên liệu sản xuất trái cây an toàn chất lượng, điều kiện tiên quyết trong định hướng sản xuất trái cây bền vững là doanh nghiệp phải tham gia, để có thị trường ổn định và thông thương.
Tính thiếu bền vững về chất lượng trái cây, về quy trình xây dựng thương hiệu trái cây, thiếu ổn định trong sản xuất và tiêu thụ, mỗi địa phương lại tự "bơi" trong xây dựng thương hiệu, rồi sự không gắn kết giữa nhà khoa học và nhà vườn với doanh nghiệp và ngành thương mại đã khiến thế mạnh trái cây của vùng sông nước, miệt vườn Nam Bộ vẫn chưa được phát huy, thậm chí không xem xét đến cung và cầu trên thị trường tiêu thụ trái cây. Có thể thấy, liên kết vùng trong quy hoạch vùng trái cây đặc sản và xây dựng đầu mối tiêu thụ trái cây cho vùng ÐBCSL là giải pháp hữu hiệu nhất.
BÀI, ẢNH: QUỐC THẮNG, BÙI DŨNG VÀ PHÙNG DŨNG
- Nhận đường liên kết
- X
- Ứng dụng khác
Nhãn
Liên kết vùng - ANLT
Nhãn:
Liên kết vùng - ANLT
- Nhận đường liên kết
- X
- Ứng dụng khác
Nhận xét
Đăng nhận xét