Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở đồng bằng Sông Cửu Long, khu vực này đã có những thay đổi rõ rệt. Nhiều mô hình sản xuất mới đã thực sự phát huy hiệu quả. Tuy nhiên những bất cập về giá cả, thị trường, phương thức sản xuất… khiến người dân vẫn chưa thể làm giàu trên chính mảnh đất của mình.
Thay đổi cách làm ăn
Ông Huỳnh Văn Thòn, Tổng Giám đốc Công ty Bảo vệ thực vật An Giang, đơn vị đầu tiên xây dựng thành công mô hình cánh đồng mẫu lớn (CĐML) khẳng định: “Chúng ta đã trả giá đắt cho cách làm ăn riêng lẻ, sản xuất nhỏ. Bây giờ phải xác định chỉ có quy mô lớn mới hiện đại hóa được nông nghiệp. Để làm được việc này nhất thiết phải liên kết những hộ nông dân lại với nhau, hợp tác với doanh nghiệp cùng sản xuất, thì mới đem lại hiệu quả cao hơn”.
Những tổng kết gần đây của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) cho thấy những mô hình liên kết CĐML và các mô hình hợp tác xã (HTX) kiểu mới đang chứng minh được hiệu quả, khắc phục được tình trạng làm ăn manh mún, quy mô nhỏ lẻ, không có sự gắn kết giữa doanh nghiệp với nông dân. Nhiều chuyên gia trong lĩnh vực nông nghiệp, khẳng định “mô hình cánh đồng liên kết” hay CĐML chính là một xu thế tất yếu trong tương lai của ngành nông nghiệp.
Do chủ động được nguyên liệu, từ đầu năm đến nay, Công ty TNHH Thủy sản Biển Đông ( TP Cần Thơ ) tiếp tục ổn định sản xuất chế biến cá tra đông lạnh xuất khẩu. Duy Khương – TTXVN
|
Có thể nói, CĐML là câu trả lời để giúp nông dân có thể tiếp cận các loại phân bón, vật tư nông nghiệp đầu vào phục vụ sản xuất với giá cả ổn định và chất lượng đảm bảo. Đồng thời tăng giá bán nông sản đầu ra, nâng cao thu nhập cho nông dân. Theo tính toán năm 2012, mỗi hecta lúa trong CĐML, người sản xuất có thể thu lời thêm từ 2,2 - 7,5 triệu đồng. Chi phí sản xuất giảm từ 10 - 15%, trong khi giá trị sản lượng tăng 20-25%.
Ts. Nguyễn Văn Sánh, Viện Nghiên cứu phát triển ĐBSCL thuộc Đại học Cần Thơ: Ngoài liên kết “4 nhà”, cần phải chú trọng vấn đề liên kết vùng. Quá trình liên kết phải được thực hiện trên cơ sở phát triển bền vững các ngành hàng nông nghiệp chủ lực ở ĐBSCL. Lợi thế của liên kết vùng trong sản xuất hàng hóa lớn như lúa - gạo, cây ăn quả, thủy sản là xây dựng được nền nông nghiệp “4 đúng”, là: Đúng chất, đúng lượng, đúng thời điểm và đúng giá. Quá trình liên kết vùng giúp các địa phương thống nhất được các dòng sản phẩm chủ lực của vùng và đặc sản của địa phương, tránh tình trạng mạnh ai nấy làm.
|
Bên cạnh đó, để khắc phục được tình trạng làm ăn manh mún nhỏ lẻ thì các HTX, tổ hợp tác kiểu mới cũng là hướng đi có tính lâu dài. Thực tế gần đây, đã có hàng trăm HTX kiểu mới được hình thành và phát triển, đang sản xuất và kinh doanh khá hiệu quả, hỗ trợ tốt cho sự phát triển kinh tế hộ gia đình xã viên. Điển hình trong lĩnh vực này là HTX thủy sản Thới An, mô hình liên kết sản xuất, tiêu thụ cá tra ở Cần Thơ, HTX chăn nuôi bò sữa Evergrowth ở Sóc Trăng, HTX dịch vụ sản xuất nông nghiệp Tân Cường của tỉnh Đồng Tháp…
Ông Nguyễn Ngọc Hải - Chủ nhiệm HTX nuôi cá tra Thái An (Cần Thơ), cho biết: Mô hình liên kết vùng là bắt buộc, nông dân đã có mối liên kết ngang, bởi không có doanh nghiệp thu mua nào đi ký hợp đồng với từng hộ. Cá được hợp đồng tiêu thụ, khi giá thị trường biến động thì người dân vẫn không lo. Xã viên chúng tôi có thể xem đây là cách làm hay, doanh thu tăng 10 - 20 lần so với trước khi tham gia HTX.
Với mô hình này, các HTX đảm nhận cung cấp các dịch vụ sản xuất cả đầu vào và đầu ra cho hộ xã viên như cung cấp vật tư, phân bón, thức ăn gia súc, bảo vệ thực vật và tiêm phòng cho đàn gia súc, gia cầm. HTX cũng là cầu nối giữa doanh nghiệp với nông hộ, đại diện cho hộ ký hợp đồng cung cấp nguyên liệu cho doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu nông sản, bảo vệ quyền lợi cho xã viên. Nhiều HTX đạt doanh thu lên đến chục tỷ đồng mỗi năm.
Xác định rõ nhiệm vụ của “mỗi nhà”
Nhận định về việc thực hiện Nghị quyết 26-NQ/TW của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Văn Ninh cho rằng: “Chúng ta đã đạt được nhiều kết quả trong việc thực hiện chính sách tam nông, nhưng nếu xét theo đúng tinh thần Nghị quyết TW7 thì rõ ràng là chưa đạt. Nguyện vọng của người dân là bán được sản phẩm giá cao, không còn tình trạng được mùa rớt giá, nhưng điều này chúng ta chưa thực hiện được. Vấn đề liên kết “4 nhà” được đặt ra rất sớm, nhiều nơi đạt được những kết quả nhất định, nhưng giữa các nhà vẫn chưa có sự ràng buộc về trách nhiệm một cách rõ ràng, cụ thể. Qua thực tiễn 5 năm, chúng ta cần làm rõ trách nhiệm vai trò của từng “nhà”. Nhà nước làm gì, doanh nghiệp làm gì, nông dân làm gì và nhà khoa học làm gì để thể chế hóa vai trò, trách nhiệm của từng “nhà”, chứ không thể dựa vào sự kêu gọi chung chung”.
Theo Cục Trồng trọt, Bộ NN&PTNT, ở ĐBSCL nếu diện tích lúa đăng ký sản xuất theo mô hình CĐML năm 2011 chỉ khoảng 7.200 ha, thì đến vụ đông xuân năm 2012 diện tích này nâng lên 20.000 ha và đến năm 2013 đạt 100.000 - 200.000 ha, trung bình mỗi tỉnh đạt 10.000 - 20.000 ha. Điều này cho thấy, mô hình CĐML đang chứng minh được hiệu quả và có sức lan tỏa đối với nông dân. Mô hình CĐML không chỉ giới hạn ở các tỉnh Nam Bộ mà đã lan ra các vùng, miền trong cả nước, thậm chí được áp dụng sáng tạo sang các lĩnh vực sản xuất khác như mía đường, cà phê, điều, chè, chăn nuôi thuỷ sản và rau quả an toàn…
|
Trên thực tế, mô hình CĐML và HTX kiểu mới tuy bước đầu đã khẳng định được những ưu điểm nổi bật, mang lại hiệu quả kinh tế, nhưng ngay trong các mô hình mới này vẫn còn nhiều hạn chế. Nhiều mô hình CĐML mới chủ yếu tập trung hỗ trợ được đầu vào mà chưa hỗ trợ, giải quyết được những khó khăn của đầu ra, thị trường nông sản. Sự liên kết và chia sẻ lợi ích giữa doanh nghiệp và người sản xuất chưa hài hòa. Mức độ tiêu thụ nông sản hàng hóa cho người nông dân còn thấp, giá cả lên xuống bấp bênh, không ổn định. Hiện tượng được mùa, mất giá vẫn tiếp tục diễn ra khiến người sản xuất lo lắng, không yên tâm đầu tư. Một số mô hình liên doanh, liên kết nhưng lợi ích của nông dân tham gia còn thấp, thậm chí họ mới chỉ được hưởng giá trị ngày công lao động. Trong các chuỗi giá trị nông sản, việc đầu tư vào khâu chế biến và bảo quản vẫn còn những bất cập, vì thế giá trị gia tăng của các sản phẩm nông sản chưa cao.
Theo nhận định của Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Quốc Doanh, mô hình CĐML tuy đã khẳng định được chỗ đứng trong sản xuất lúa gạo ở ĐBSCL, nhưng diện tích áp dụng mô hình này vẫn chưa đến 10% tổng diện tích canh tác lúa trong vùng. Việc áp dụng mô hình CĐML sang các loại hình, khu vực sản xuất khác diễn ra chậm. Mặc dù Chính phủ đã có nhiều chính sách khuyến khích áp dụng, đầu tư công nghệ trong sản xuất nông nghiệp nhưng số lượng các doanh nghiệp được chứng nhận là “Doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao” hiện nay mới chỉ dừng lại ở con số 5 doanh nghiệp trong cả nước. Ở một số mô hình liên kết khác, tuy doanh nghiệp đã hỗ trợ giống, vốn đầu vào, chia sẻ được rủi ro với nông dân nhưng số lượng hộ nông dân có đủ điều kiện để liên doanh, liên kết sản xuất với doanh nghiệp còn ít. Không ít mô hình đã và đang hoạt động với quy mô khá lớn nhưng những lo ngại về sự độc quyền của doanh nghiệp hay sự phân phối lợi ích chưa thật hài hòa, hợp lí giữa doanh nghiệp và hộ nông dân, đe dọa sự phát triển bền vững của mối liên kết. Ở một số mô hình khi doanh nghiệp bị thua lỗ hoặc tình trạng tài chính doanh nghiệp không minh bạch, nông dân dễ rơi vào tình trạng khó khăn.
Lê Hiền
Nhận xét
Đăng nhận xét