(LĐ) - Áo bà ba là loại trang phục đặc trưng Nam Bộ, cả nam lẫn nữ đều mặc
được; nhưng giới nữ ưa chuộng nhiều hơn; đặc biệt là ở miệt vườn, miệt ruộng
của vùng sông nước Cửu Long, tạo nên nét duyên dáng đồng bằng không gì so sánh được.
Nguồn gốc xuất xứ và tên gọi của loại trang phục “đặc sản” này đến nay vẫn
còn nhiều ý kiến khác nhau. Có người cho rằng, áo bà ba xuất hiện
đầu tiên ở Nam Bộ vào thời Hậu Lê vì có nét giống “cái áo đàn ông cổ tròn, cửa ống,
tay hẹp" mà sách xưa ghi là cụ Lê Quý Đôn đã quy định thành trang phục cho dân Đàng Trong
cuối thế kỷ 18.
Lại có ý kiến
cho rằng, áo bà ba chỉ mới xuất hiện vào nửa đầu thế kỷ 19, được học giả Trương
Vĩnh Ký cách tân từ áo của người Malaysia gốc Hoa cho phù hợp với vóc dáng người Việt. Nếu
điều này đúng thì dân Nam Bộ chính là những người giao lưu khu vực sớm nhất.
Tôi không biết ai đúng, nhưng vẫn coi áo bà ba là “đặc sản” của xứ tôi – đồng bằng
sông Cửu Long - dù hiện nay phần đông giới trẻ thích mặc quần áo hiphop, model
Hàn Quốc, quần jean, áo pull; giới công chức thì mặc trang phục công sở, giới
doanh nhân nam mặc veston, sơmi, doanh nhân nữ mặc váy hay đồ tây..., gọi chung
là Âu phục.
Dân Nam Bộ nói chung và dân miền Tây nói riêng mặc nhiên coi áo bà ba như thứ trang
phục truyền thống, chất chứa “giá trị phi vật thể” tích tụ từ bao đời trên mảnh
đất phương Nam. Những năm gần đây, áo bà ba thường xuyên xuất hiện trong các cuộc
thi hoa hậu, người đẹp ở đồng bằng sông Cửu Long và cả Nam Bộ như một sự thừa
nhận và cổ xúy cho loại trang phục có sức quyến rũ bền bỉ, vượt qua thử thách của
thời gian.
Nhiều thế hệ người Miền Tây thuộc lời bài hát “Cô Thắm về làng” của nhạc sĩ Giao Tiên với hình ảnh áo bà ba hiền
hoà: “Kìa ai như cô Thắm con bác năm đi
xa mới về, dáng người trông xa xinh quá, trông ngẩn ngơ đám trai làng ta. Nón
bài thơ nghiêng trong nắng tà, áo bà ba
duyên quê ấy mà, cùng chị em chân dép cô đi chợ xa”.
Với tôi, những năm tháng trẻ thơ, nhớ những lần ngơ ngác đi chợ huyện sợ
lạc, tay luôn nắm chặt vạt áo bà ba của má tôi – một phụ nữ chân quê đồng bằng.
Nhớ các chị tôi vào độ tuổi trăng tròn thường mặc chiếc áo bà ba mượt mà,
đầy đặn, làm nhiều anh trai làng phải ngã bệnh tương tư, lén
gửi thư tình bằng giấy học
trò kẻ hàng đôi để chữ viết được tròn trịa như... con gái mặc áo bà ba.
Áo bà ba không chỉ xuất hiện ngoài phố chợ mà còn có mặt trên ruộng đồng,
dưới tán vườn, thấp thoáng qua cây cầu nhỏ... Cái thứ trang phục “2 phần kín, 1
phần hở" đó vừa giấu, vừa khoe một cách tài tình vẻ đẹp tự nhiên, quyến rũ
trong cơ thể của người phụ nữ Nam Bộ. Áo bà ba đã đi vào thơ ca, nhạc, họa
cùng với chiếc xuồng ba lá, cái nón lá và chiếc khăn rằn thành biểu tượng của nữ
du kích miền Tây.
Áo bà ba cổ điển, được nhiều người mặc từ thập niên 1960 trở về trước, may bằng
các loại vải một, vải ú, vải sơn đầm... rất mau khô sau khi giặt; được xẻ ở hai
bên hông làm người mặc cảm thấy thoải mái, gần vạt áo có thêm hai cái túi to.
Chính nhờ tính tiện dụng và sự thoải mái mà cả nam lẫn nữ ở đồng bằng sông Cửu
Long thường vận bộ bà ba đen khi đi làm đồng.
Theo các nhà Từ điển học nghiệp dư của Wikipedia, trong 2 thập niên
1960-1970, áo bà ba truyền thống được phụ nữ thành thị cải tiến nhờ óc sáng tạo
của các nhà tạo mẫu dân gian mang hơi hướng "tân cổ giao
duyên" nên vừa phá cách, vừa giữ được nét đặc thù. Áo dài bà ba hiện nay
không thẳng và rộng như xưa, mà được may hẹp, nhấn thêm eo bụng, eo ngực cho ôm
sát lấy thân hình như để khoe
"3 số đo" của các cô gái duyên dáng dễ thương.
Người miền Bắc có câu: "Anh đi anh nhớ quê nhà. Nhớ canh rau muống,
nhớ cà dầm tương", nhớ “áo tứ thân với tóc đuôi gà”. Còn người miền Nam
thì mộc mạc hơn, “thương
nhớ áo bà ba” như nhớ thương một vùng ký ức tuổi thơ một thời thấp
thoáng...
TRẦN HỮU HIỆP
Nhận xét
Đăng nhận xét