Bài trên Báo Cần Thơ, Thứ năm, 06/02/2014 20 giờ 36 GMT+0 | ||
Những năm qua,
việc đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ (nhãn hiệu chứng nhận, nhãn hiệu tập
thể, chỉ dẫn địa lý…) được các doanh nghiệp (DN) và địa phương vùng
ĐBSCL quan tâm. Song, đến nay ĐBSCL vẫn chưa có được những thương hiệu
mạnh cho các sản phẩm nông sản chủ lực. Mới đây, tại buổi Tọa đàm “Xây
dựng, phát triển thương hiệu và bảo vệ tài sản trí tuệ của các tỉnh
ĐBSCL” diễn ra tại TP Cần Thơ, chiến lược xây dựng thương hiệu vùng,
miền với hệ thống chính sách, giải pháp về đầu tư, liên kết, tìm thị
trường… được đúc kết rằng: DN cần đi tiên phong trong thực hiện chiến
lược này.
Yêu cầu cấp thiết
Theo Cục Sở hữu trí tuệ, một số sản phẩm nổi tiếng
của vùng ĐBSCL đã được cấp văn bằng bảo hộ, như: chỉ dẫn địa lý (nước
mắm Phú Quốc-Kiên Giang, gạo Một Bụi Đỏ Hồng Dân- Bạc Liêu, bưởi Năm Roi
Bình Minh-Vĩnh Long…), nhãn hiệu chứng nhận (gạo thơm Sóc Trăng, chợ
nổi Cái Răng…), nhãn hiệu tập thể (cá rô Hậu Giang, quýt hồng Lai
Vung-Đồng Tháp; kẹo dừa, bưởi da xanh, chôm chôm nhãn, măng cụt Bến
Tre…), nhưng số lượng đơn đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở ĐBSCL
tăng không đáng kể và có xu hướng giảm. Năm 2012, ĐBSCL có 1.817 đơn
đăng ký (chiếm 7,3% cả nước) và 1.206 số văn bằng được cấp (chiếm 7,7%).
Năm 2013, ĐBSCL có 1.837 đơn đăng ký và số văn bằng được cấp là 1.204.
Nguyên nhân do một số địa phương trong vùng chưa xác định cụ thể sản
phẩm, hàng hóa hoặc dịch vụ cần tập trung đầu tư dẫn đến tình trạng phát
triển dàn trải, thiếu chiến lược chung. Song song đó, hoạt động của các
DN có xu hướng tự phát, nhỏ lẻ, thiếu tính gắn bó để xây dựng các
thương hiệu mạnh.
Hầu hết các đại biểu đều nhìn nhận xây dựng, phát
triển và quản lý thương hiệu là một yêu cầu tất yếu, khách quan trong
việc khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế vượt trội của vùng. Đây cũng
là giải pháp góp phần nâng cao liên kết, tăng sức cạnh tranh của hàng
hóa nông sản. Song, những khó khăn về chính sách pháp lý, quy hoạch- đầu
tư, khoa học công nghệ, thị trường… là bài toán khó cho DN và địa
phương trong xây dựng chiến lược phát triển thương hiệu. “Khâu tổ chức
quản lý thương hiệu đóng vai trò quan trọng. Đơn cử, thương hiệu xoài
cát Hòa Lộc có cái nôi từ tỉnh Tiền Giang. Tuy nhiên, trên thực tế, Tiền
Giang không phải là địa phương trồng “độc quyền” giống xoài này. Một số
địa phương trong vùng cũng trồng thành công và khi đưa ra thị tường vẫn
mang tên xoài cát Hòa Lộc của Tiền Giang. Trong khi đó, chúng tôi không
đủ vai trò, chức năng để quản lý giống xoài này ở các tỉnh bạn!” - ông
Ngô Kỷ, Trưởng phòng Công nghệ thông tin, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh
Tiền Giang nói.
Ông Trần Hữu Hiệp, Vụ trưởng Vụ
Kinh tế, Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, cho biết: “Các mặt hàng nông sản chủ
lực của vùng (lúa gạo, trái cây, thủy sản) luôn chiếm sản lượng và kim
ngạch xuất khẩu lớn nhưng hầu hết chưa có được thương hiệu mạnh. Yêu cầu
xây dựng và phát triển các thương hiệu nông sản chủ lực với đặc thù
vùng, miền, chỉ dẫn địa lý gắn với các DN mạnh, uy tín đã được đặt ra
thời gian qua, song đến nay vẫn chưa mang lại kết quả như mong muốn.
Hiện chúng ta vẫn chưa có một chương trình thương hiệu vùng miền trong
chiến lược thương hiệu quốc gia khiến nhiều sản phẩm, lợi thế vẫn chỉ ở
dạng tiềm năng. Vì vậy, một chiến lược thương hiệu vùng miền nói chung
và các loại nông sản chủ lực của ĐBSCL nói riêng đang trở thành đòi hỏi
bức bách”.
DN đóng vai trò then chốt
Theo các chuyên gia đầu ngành, việc xây dựng và phát
triển thương hiệu vùng ĐBSCL cần được đặt trong một chuỗi giá trị sản
xuất hàng hóa. Đồng thời, xác định trách nhiệm, lợi ích của từng chủ thể
tham gia; những “công đoạn” quyết định, “điểm nút” đột phá để chọn lựa
giải pháp, thứ tự ưu tiên trong chiến lược xây dựng thương hiệu. Ông
Trần Hữu Hiệp, Vụ trưởng Vụ Kinh tế, Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, phân tích:
“Những hục hặc giữa các thành viên giữ vai trò quyết định đã làm cho các
mặt hàng nông sản chủ lực của vùng phải đứng trước cảnh “cạnh tranh sân
nhà” và “gồng mình” trước sự lấn lướt của các đối thủ ngoại. Xây dựng
và phát triển các thương hiệu vùng ĐBSCL phải bắt đầu từ DN. Bởi DN là
mắt xích cuối cùng trong chuỗi đầu ra, hơn ai hết họ “biết mình, biết
ta” trong cuộc cạnh tranh trên thị trường”… Nhiều ý kiến cũng cho rằng,
để thương hiệu nông sản chủ lực của vùng tìm được chỗ đứng nhất thiết
phải tăng cường liên kết “4 nhà” để tạo chuỗi giá trị khép kín từ khâu
giống, sản xuất, thu hoạch, tồn trữ, chế biến và xuất khẩu.
Theo ông Hồ Việt Hiệp, Phó Chủ tịch UBND tỉnh An
Giang, xây dựng nhãn hiệu, thương hiệu trong lĩnh vực nông nghiệp phải
gắn liền vai trò của DN. Tuy nhiên, DN hiện nay không mấy mặn mà đầu tư
cho nông nghiệp, nông thôn vì các chính sách ưu đãi cho DN đầu tư chưa
thực sự hấp dẫn. Bên cạnh đó, do thu hồi vốn chậm và mang tính rủi ro
cao, nên DN ngại đầu tư. Để DN xông xáo hơn, trước hết Chính phủ phải có
những chính sách ưu đãi hợp lý cho DN. Xây dựng thương hiệu vùng, miền
hiện nay còn vướng “nút thắt” ở đội ngũ cán bộ quản lý còn yếu kém dẫn
đến công tác điều hành mang tính tự phát, cảm tính và thiếu tầm nhìn
chiến lược. Vì vậy, cần quy hoạch, phân luồng đào tạo; chú trọng phát
triển nguồn nhân lực có trình độ tay nghề cao, cán bộ quản lý có năng
lực phục vụ cho các DN, nhà sản xuất hay khu công nghiệp sản xuất hàng
hóa chủ lực…
Ông Bùi Văn Quyền, Cục trưởng Cục Công tác phía Nam,
Bộ Khoa học và Công nghệ, nhấn mạnh: “Trong nền kinh tế thị trường và
hội nhập quốc tế, vấn đề bảo hộ tài sản trí tuệ nhằm phát triển sản
xuất, tăng tính cạnh tranh và tìm đầu ra ổn định cho sản phẩm nông sản
của vùng ĐBSCL cần được quan tâm hơn nữa. Vì vậy, mỗi địa phương cần chú
trọng công tác truyền thông để nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho DN
và các đơn vị liên quan trong việc chủ động xây dựng chiến lược phát
triển, quản lý thương hiệu”. Theo ông Quyền, thời gian tới, theo đề nghị
của các địa phương, Cục Sở hữu trí tuệ sẽ tăng cường đầu tư, hỗ trợ
phát triển các dịch vụ cung cấp thông tin, đại diện sở hữu trí tuệ, định
giá tài sản trí tuệ; đề ra cơ chế phối hợp giữa các địa phương trong
việc bảo hộ và phát triển tài sản trí tuệ mang tính đại diện khu vực.
Bởi thương hiệu vùng, miền như một cơ thể sống, muốn thành công, không
thể chỉ dừng lại ở việc thiết kế một logo, hệ thống nhận diện thương
hiệu mà phải liên tục duy trì, nuôi dưỡng thông qua các hoạt động xây
dựng và quản trị thương hiệu.
Bài, ảnh: MỸ THANH
|
Thảo luận về "Văn hoá & tính cách con người Việt theo vùng miền" trên Trái tim Việt Nam online . Người bắc thường ăn nói nhẹ nhàng, kín đáo, thường hay suy nghĩ sâu xa. Người miền trung thì mọc mạc, chất phác lại hay có tính cục bộ. Người miền nam thì phóng khoáng cởi mở, dễ gần.Dân miền Bắc thường thể hiện mình qua lời nói, trong bất cứ tình huống nào họ cũng đều phải nói cho được. Dân miền Trung thường thể hiện mình qua thái độ, cử chỉ, còn miền Nam thì thể hiện qua phong cách. Nói chung dân Bắc-Trung-Nam đều diễn tuồng cả, cho nên lời nói lúc thì nhẹ nhàng điềm đạm, lúc lại gắt gỏng chua ngoa, thái độ có lúc thì đằm thắm, khi thì thì lại khinh bạc, phong cách thì có lúc phóng khoáng lúc lại dè dặt... Ấn tượng bên ngoài là như thế nhưng có khi bạn cũng thấy là chẳng ai tranh cãi lý luận lại người Trung, thái độ cử chỉ của dân Bắc cũng có thể khiến bạn dè chừng, và lời nói hay thái độ của dân Nam cũng khiến bạn chạy dài... Muốn kiểm chứng thì bạn cứ bỏ ra ...
Nhận xét
Đăng nhận xét