Trần Hữu Hiệp
Kỷ niệm 41 năm giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước,
nhìn lại thành tựu hơn 30 năm qua, càng thấy rõ ý nghĩa lớn lao của sự nghiệp Đổi
Mới, đã tạo ra thế và lực mới cho nông nghiệp ĐBSCL.
Sau hơn 30 năm đổi mới, vùng
ĐBSCL đã đạt được những thành tựu quan trọng. Từ một nước thiếu lương thực,
vươn lên trở thành cường quốc xuất khẩu gạo, nhiều sản phẩm nông nghiệp của
vùng đã vươn xa, tham gia chuỗi giá trị nông sản toàn cầu.
Tiếp nối Đổi Mới, hội nhập đang mở
ra nhiều cơ hội mới, nhưng cũng nhiều thách thức. Hệ quả tích cực hay tiêu cực
của hội nhập quốc tế phụ thuộc vào việc tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức của
vùng này trong thời gian tới.
Điểm tựa tầm nhìn
Hội nhập kinh tế quốc tế đang tỏa
nhiệt khi hàng ngoại “đổ bộ” vào thị trường nội với quy mô lớn, tạo ra sức ép cạnh
tranh mạnh mẽ. Việc thực thi các cam kết Cộng đồng kinh tế ASEAN, sắp tới là
TPP và các Hiệp định song phương Việt Nam - EU, Việt Nam - Hàn Quốc… đang tạo
ra cơ hội lớn, nhưng cũng nhiều rủi ro.
Biến đổi khí hậu, nước biển dâng
không còn là “câu chuyện trăm năm”, mà nó đang hiển hiện ngay trước mắt khi
ĐBSCL phải đối mặt trước tình trạng khô hạn, xâm nhập mặn khắc nhiệt nhất 100
năm qua... đang đặt vùng này trước bước chuyển lịch sử.
Trong bối cảnh đó, Nghị quyết XII
của Đảng xác định các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu là: “Đẩy mạnh cơ cấu lại nền
kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức
cạnh tranh” trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Nghị quyết cũng xác định chủ trương “khuyến khích tích tụ, tập trung ruộng đất,
phát triển các vùng sản xuất qui mô lớn với hình thức đa dạng phù hợp với điều
kiện của từng vùng và đặc điểm của từng sản phẩm. Gắn sản xuất, chế biến, tiêu
thụ nông sản trên cơ sở phát triển các hình thức hợp tác, liên kết đa dạng giữa
hộ gia đình với các tổ chức và doanh nghiệp. Khuyến khích liên kết giữa hộ nông
dân sản xuất với tổ chức tín dụng, tổ chức khoa học, công nghệ và doanh nghiệp”.
"Hoàn thiện quy hoạch vùng, lấy quy hoạch làm cơ sở quản lý phát triển
vùng… Tăng cường liên kết giữa các địa phương trong vùng, giữa các vùng, tạo
không gian phát triển thống nhất trong vùng và cả nước”.
Sau hơn 30 năm đổi mới, vùng
ĐBSCL đã đạt được những thành tựu quan trọng, hình thành các yếu tố của các loại
thị trường hàng hóa, dịch vụ, tài chính, tiền tệ. Thị trường lao động và khoa học
- công nghệ cũng đang hình thành và phát triển. Nông hộ từ “vòng vây” của ngăn
sông cấm chợ trong nền kinh tế không có thị trường, đã vươn lên trở thành những
đơn vị “kinh tế nông hộ” năng động. Nông dân ĐBSCL ngày càng tiếp cận và ứng dụng
nhanh hơn với những tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ. “Cánh đồng lớn” đạt
được thành công bước đầu quan trọng trong liên kết sản xuất, tiêu thụ lúa gạo.
Mô hình này không chỉ giới hạn ở sản xuất lúa, mà còn được áp dụng ở nhiều
ngành hàng khác như mía đường, chăn nuôi và thủy sản. Xây dựng nông thôn mới bước
đầu tạo ra diện mạo mới, tạo ra không gian sống, lao động sản xuất và hưởng thụ
vật chất văn hóa, tinh thần tốt hơn cho người dân. Tầm nhìn dài hạn cho một
ĐBSCL phát triển an toàn, trù phú và bền vững trước “bước chuyển lịch sử”.
Chính sách, giải pháp gì tạo lực cho “bước chuyển lịch sử”?
Động lực của Đổi Mới trước đây từ
các chính sách đất đai, phát huy vai trò kinh tế nông hộ… đã đem lại nhiều
thành công; tạo ra diện mạo mới cho ĐBSCL. Nhưng đến nay, nó đang dần mất đi động
lực khi nông hộ, nền nông nghiệp nhỏ lẻ đang đứng trước thách thức mới, thiếu kết
nối sản xuất - thị trường, hiệu quả và sức cạnh tranh yếu kém của hàng nông sản.
Tác động tích lũy đáng lo ngại hơn trước biến đổi khí hậu, tình trạng khô hạn,
xâm nhập mặn, an ninh nguồn nước sông Mekong đe dọa “Vựa lúa quốc gia”.
Để phát triển đồng bằng, rất cần
những nguồn lực mới, những mô hình phát triển mới với hiệu quả cao hơn, năng suất
lao động cao hơn. Động lực mới cho các mô hình mới này cần phải được bắt đầu
chính từ nội lực của vùng, từ nguồn nhân lực bậc cao, từ khoa học và công nghệ
và từ doanh nghiệp. Nó cần những chính sách mới năng động và quyết liệt để biến
các nguồn lực từ yếu tố sản xuất, trở thành nội lực mới từ thị trường bằng mô
hình tăng trưởng mới như Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII đã nêu.
Khi gia nhập vào Cộng đồng kinh tế
ASEAN và hội nhập quốc tế sâu rộng, sẽ có thêm nhiều áp lực cạnh tranh từ bên
ngoài, đòi hỏi nâng cao năng lực cạnh tranh nông nghiệp từ bên trong; rất cần sự
tham gia mang tính quyết định của nông dân và doanh nghiệp. Người nông dân và
doanh nghiệp nông thôn phải ở vị trí trung tâm và vai trò chủ thể để thực hiện
tái cơ cấu nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Nông nghiệp ĐBSCL từ “vườn
nhà, đồng vàng” của Đổi Mới ra “chợ lớn” của hội nhập quốc tế đang rất cần quyết
tâm và động lực mới.
Trên cơ sở đó, đề xuất quan tâm
thực hiện các giải pháp sau:
Một là, quy hoạch lại sản xuất nông nghiệp theo vùng, theo quy mô
liên kết vùng trên cơ sở gắn với cung - cần thị trường. Các địa phương cần tạo
môi trường thuận lợi để tăng cường các mối liên kết giữa doanh nghiệp với doanh
nghiệp, giữa doanh nghiệp với người dân, giữa người dân với người dân, nhằm tổ
chức, hình thành mối liên kết giữa sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản theo
chuỗi giá trị.
Hai là, trên cơ sở điều 52 - Hiến pháp 2013 về “tăng cường liên kết
kinh tế vùng” và Văn kiện đại hội Đảng lần thứ XII về “xây dựng cơ chế điều phối
liên kết vùng”, cần tổ chức triển khai sớm Quyết định số 593/QĐ-TTg ngày
6-4-2016 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế thí điểm liên kết phát triển
kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL, giai đoạn 2016 - 2020. Theo đó, tập trung vào 3
lĩnh vực liên kết: (1) Sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị,
xây dựng thương hiệu các nông sản chủ lực lúa gạo, trái cây và thủy sản. (2) Đầu
tư xây dựng, nâng cấp hệ thống thủy lợi phục vụ tưới tiêu; phòng chống lũ; kiểm
soát mặn; quản lý, khai thác sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước. (3) Xây dựng,
nâng cấp kết cấu hạ tầng giao thông. Theo Quy chế, ngân sách trung ương cần đảm
bảo hỗ trợ mức vốn tối thiểu 10% so với tổng vốn đầu tư phát triển nguồn ngân
sách trung ương phân bổ cho các địa phương trong vùng để thực hiện các chương
trình, dự án liên kết vùng.
Ba là, đẩy nhanh tiến độ tái cấu trúc nông nghiệp ĐBSCL phải theo
hướng sản xuất hàng hóa lớn. Quá trình tái cơ cấu phải chú trọng đến việc cải
tiến, đổi mới cơ chế, chính sách nhằm đảm bảo tính hài hòa trong việc phân chia
lợi ích giữa các khâu trong chuỗi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, ưu
tiên cho chuỗi nông sản chủ lực lúa gạo, trái cây, tôm, cá tra.
Bốn là, tập trung cải tạo giống cây trồng, vật nuôi, tạo các giống
có năng suất, chất lượng và giá trị cao. Tăng cường năng lực hợp tác nghiên cứu
khoa học giữa các địa phương trong vùng, giữa vùng ĐBSCL với các vùng miền khác
trong cả nước và quốc tế. Đưa nhanh các công nghệ mới vào tất cả các khâu: sản
xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến, vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm. Gắn với
xây dựng và thí điểm các khu nông nghiệp công nghệ cao dựa vào những tiến bộ
khoa học - công nghệ mới, nhất là công nghệ sinh học, các mô hình liên kết, quản
lý theo tiêu chí hiện đại dựa vào tri thức mới.
Tầm nhìn dài hạn cho một ĐBSCL
phát triển an toàn, trù phú và bền vững trước “bước chuyển lịch sử” đang đòi hỏi
nhiều nỗ lực và quyết tâm. Phát triển bền vững vùng ĐBSCL trên cơ sở tăng cường
liên kết vùng đang là đòi hỏi tất yếu khách quan.... Đọc thêm tại:
http://nongnghiep.vn/dbscl-truoc-buoc-chuyen-lich-su-post162197.html |
NongNghiep.vn
Nhận xét
Đăng nhận xét