Chuyển đến nội dung chính

ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG: Liên kết phát triển mô hình “cánh đồng mẫu lớn”

Thời gian qua, nông dân mạnh dạn liên kết với nhau và liên kết với doanh nghiệp để xây dựng mô hình "cánh đồng mẫu lớn- CĐML, trong sản xuất lúa tại nhiều địa phương ở ĐBSCL đã nâng cao được hiệu quả sản xuất. Song, qua thực tiễn phát triển, mô hình CĐML tại ĐBSCL cũng bộc lộ một số khó khăn, hạn chế cần sớm được khắc phục để đáp ứng yêu cầu mới về hội nhập quốc tế và thích ứng biến đổi khí hậu.
* Khẳng định hiệu quả
CĐML (nay được nhiều nơi gọi là cánh đồng lớn-CĐL) là cách thức tổ chức sản xuất trên cơ sở hợp tác, liên kết giữa nông dân với doanh nghiệp, tổ chức đại diện của nông dân trong sản xuất gắn với chế biến, tiêu thụ sản phẩm, có quy mô ruộng đất lớn, với mục tiêu tạo ra sản lượng nông sản hàng hóa tập trung, chất lượng cao, tăng sức cạnh tranh trên thị trường nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất.
Theo tiến sĩ Nguyễn Quốc Dũng, Giám đốc Học viện Chính trị khu vực IV, những năm gần đây ở ĐBSCL xuất hiện mô hình CĐML đã bước đầu đáp ứng được yêu cầu cấp thiết về việc từng bước khắc phục tình trạng sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, sản phẩm thiếu tính đồng nhất, đi lên theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, có sự liên kết chặt chẽ "4 nhà" trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, từng bước nâng cao thu nhập và mức sống của nông dân. Mô hình CĐML ở ĐBSCL được manh nha vào năm 2009-2010 tại An Giang, với mô hình đầu tiên do Công ty cổ phần Vật tư nông nghiệp An Giang liên kết với nông dân thực hiện có các kết quả khá tốt như: chi phí sản xuất giảm, nâng cao chất lượng hạt lúa, đầu ra sản phẩm được bảo đảm và nông dân thu nhiều lợi nhuận hơn. CĐML từ thực tiễn đã trở thành phong trào được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phát động ngày 26-3-2011 tại TP Cần Thơ, được các địa phương vùng ĐBSCL hưởng ứng mạnh mẽ và coi là một hướng đi quan trọng trong sản xuất lúa gạo nói riêng và sản xuất nông sản nói chung. Nghị quyết số 21/2011/QH13 ngày 26-11-2011 của Quốc hội khẳng định đây là giải pháp quan trọng lâu dài góp phần tái cơ cấu nền nông nghiệp, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển nông nghiệp bền vững. Theo báo cáo sơ kết của ngành nông nghiệp các địa phương vùng ĐBSCL, năm 2010 toàn vùng có 3.000ha tham gia CĐML, đến năm 2011 tăng lên 9.000 ha và tính đến vụ đông xuân 2012-2013 tất cả các tỉnh, thành ĐBSCL đều có CĐML với tổng diện tích hơn 71.000ha. Thực tiễn cho thấy, CĐML đã đem lại nhiều hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường, từng bước đưa nền nông nghiệp ở khu vực ĐBSCL đi lên sản xuất hàng hóa lớn, hiện đại. Qua đó, góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất, đáp ứng yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
Theo số liệu tổng hợp của Ban chỉ đạo Tây Nam Bộ, từ mô hình ban đầu khoảng 200ha tại An Giang, đến nay mô hình CĐML được nhân rộng lên 146.353 ha ở nhiều tỉnh, thành ĐBSCL. Mô hình CĐML đã giúp cả nông dân và doanh nghiệp đều tăng được lợi nhuận nhờ giảm được các chi phí sản xuất đầu vào và nâng cao năng suất, chất lượng, giá bán sản phẩm. Đặc biệt, khi các nông hộ nhỏ lẻ liên kết, hình thành "cánh đồng lớn" đã tạo không gian và điều kiện thuận lợi cho việc đẩy mạnh cơ giới hóa, thực hành các tiêu chuẩn sản xuất nông nghiệp tốt và ứng dụng đồng bộ các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Đồng thời, việc tổ chức sản xuất kinh doanh khép kín theo chuỗi giá trị hạt gạo cũng giúp nông dân và doanh nghiệp chủ động kiểm soát và nắm chi phí phát sinh từng khâu của chuỗi, hạn chế đến mức thấp nhất các khâu trung gian. Thạc sĩ Trần Hữu Hiệp, Ủy viên Chuyên trách Kinh tế, Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, cho rằng: "Cánh đồng lớn (CĐL) không chỉ mang lại các hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường mà quan trọng hơn là đã tạo ra mô hình tổ chức sản xuất mới gắn kết thị trường, tạo liên kết chặt chẽ hơn giữa nông dân và doanh nghiệp. Phát triển CĐL phù hợp với mục tiêu, chương trình xây dựng nông thôn mới".
* Cần quy hoạch các vùng thực hiện CĐML
Thời gian qua, mô hình CĐML phát huy được vai trò tích cực trong thúc đẩy liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp để phát triển sản xuất theo hướng hàng hóa lớn và nó đã khẳng định được "sức sống" trong thực tế khi mang lại hiệu quả cả về mặt kinh tế, xã hội và môi trường. Tuy nhiên, việc phát triển CĐML tại nhiều địa phương hiện vẫn còn mang tính phong trào, chạy theo số lượng, do nhận thức còn hạn chế và chưa có sự gắn kết thật chặt chẽ giữa các bên có liên quan, nhất là giữa nông dân và doanh nghiệp nên tình trạng "bẻ kèo" các hợp đồng liên kết sản xuất và bao tiêu sản phẩm còn thường xuyên xảy ra. Mặt khác, cơ sở hạ tầng, thủy lợi tại nhiều nơi cũng chưa đảm bảo cho việc xây dựng CĐML và các tác động của biến đổi khí hậu, mặn xâm nhập và nguồn nước ngọt ngày càng khan hiếm cũng tác động đến sự phát triển bền vững của mô hình CĐML. Vì vậy, nhiều ý kiến cho rằng, tới đây cần quy hoạch lại các vùng thực hiện CĐML để giúp phát huy lợi thế cạnh tranh của các vùng có điều kiện sản xuất lúa gạo hàng hóa, chứ không nên phát triển mô hình CĐML theo kiểu "đại trà" nơi nào cũng làm dù các điều kiện sản xuất không phù hợp. Đồng thời, cần có các cơ chế chính sách và môi trường pháp lý tạo điều kiện thuận lợi cho CĐML ở ĐBSCL phát triển. " Biến đổi khí hậu ngày càng tăng, nhất là mặn xâm nhập và nguồn nước ngọt ngày càng khan hiếm cũng đã và đang đe dọa đến sự phát triển bền vững của ĐBSCL, đòi hỏi chúng ta phải có giải pháp thích ứng kịp thời. Trong điều kiện đó, CĐL chỉ nên quy hoạch phát triển ở những nơi có điều kiện sản xuất lúa hàng hóa và chủ động được nước tưới tiêu, còn nếu không bảo đảm thì chuyển sang các loại cây trồng vật nuôi khác hoặc chỉ phát triển kinh tế hộ"-Phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Khắc Thanh, Viện Kinh tế Chính trị học, Học Viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, lưu ý. Ông Lưu Minh Đức, Chủ doanh nghiệp tư nhân Trung thạnh, TP Cần Thơ, cũng cho biết: "Thời gian qua, các doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong việc mở rộng quy mô CĐL do thiếu vốn và khó tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi vì thủ tục còn phiền hà và còn thiếu các cơ chế chính sách ưu đãi. Đây là vấn đề mà nhà nước cần đặc biệt quan tâm hỗ trợ cho doanh nghiệp, nhất là trong bối cảnh doanh nghiệp phải chịu nhiều sức ép cạnh tranh do hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng".

Thời gian qua, nhờ được doanh nghiệp tham gia CĐL bao tiêu sản phẩm mà nhiều nông dân ở TP Cần Thơ bán lúa được giá cao hơn thị trường từ 100 - 200 đồng/kg so với cùng thời điểm. Ảnh: KHÁNH TRUNG 
Theo Thạc sĩ Trần Hữu Hiệp, Ủy viên Chuyên trách Kinh tế, Ban chỉ đạo Tây Nam Bộ, CĐL cần được xây dựng trên một quy hoạch sản xuất lúa được tiếp cận theo lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh vùng. ĐBSCL có thể trồng lúa ở nhiều nơi, nhưng sản xuất lúa hàng hóa cạnh tranh chỉ nên tập trung ở một số nơi và nên quy hoạch thực hiện các CĐL tại đây. Còn những nơi khác nên ưu tiên cho các loại cây trồng, vật nuôi dành cho mục đích kinh tế khác hiệu quả hơn. Thạc sĩ Trần Hữu Hiệp cho rằng: CĐL là một mô hình tốt, là "nguồn cung thực tiễn" sinh động để các cơ quan Trung ương và địa phương hoạch định cơ chế, chính sách. Nhưng thực tế "lối đi đến CĐL" vẫn còn gặp những trở ngại, đặt ra trách nhiệm không chỉ của doanh nghiệp, nông dân mà đang đòi hỏi các cơ chế, chính sách mới hơn, mạnh mẽ hơn từ các cơ quan hoạch định chính sách và thực thi để tháo gỡ, mang lại hiệu quả cao hơn.
Để nhân rộng và phát triển bền vững mô hình CĐL, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, nâng cao nhận thức gắn với việc phân chia hợp lý lợi ích giữa các bên có liên quan để tăng cường tính bền vững trong mối liên kết "4 nhà". Đồng thời, đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất gắn với kiến thiết lại đồng ruộng thuận lợi cho cơ giới hóa và đẩy mạnh công tác đào tạo nghề nhằm chuyển lượng lao động dư thừa ra khỏi nông nghiệp. Đặc biệt, cần tăng cường vai trò của nhà nước, nhất là vai trò "kết nối"và hỗ trợ cho các bên có liên quan cũng như thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước, kịp thời "phân xử" các tranh chấp phát sinh giữa các bên có liên quan.
Khánh Trung


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

"Tính cách người Việt theo vùng miền"

Thảo luận về "Văn hoá & tính cách con người Việt theo vùng miền" trên  Trái tim Việt Nam online . Người bắc thường ăn nói nhẹ nhàng, kín đáo, thường hay suy nghĩ sâu xa. Người miền trung thì mọc mạc, chất phác lại hay có tính cục bộ. Người miền nam thì phóng khoáng cởi mở, dễ gần.Dân miền Bắc thường thể hiện mình qua lời nói, trong bất cứ tình huống nào họ cũng đều phải nói cho được. Dân miền Trung thường thể hiện mình qua thái độ, cử chỉ, còn miền Nam thì thể hiện qua phong cách. Nói chung dân Bắc-Trung-Nam đều diễn tuồng cả, cho nên lời nói lúc thì nhẹ nhàng điềm đạm, lúc lại gắt gỏng chua ngoa, thái độ có lúc thì đằm thắm, khi thì thì lại khinh bạc, phong cách thì có lúc phóng khoáng lúc lại dè dặt... Ấn tượng bên ngoài là như thế nhưng có khi bạn cũng thấy là chẳng ai tranh cãi lý luận lại người Trung, thái độ cử chỉ của dân Bắc cũng có thể khiến bạn dè chừng, và lời nói hay thái độ của dân Nam cũng khiến bạn chạy dài... Muốn kiểm chứng thì bạn cứ bỏ ra ...

ART NUDE PHOTOS của Dương Quốc Định

Quên những bộn bề lo toan giá vàng lên xuống, giá lúa, cá tra giảm, chuyện nhà khoa học phải nói dối ... để  ngắm ảnh các em xinh đẹp. Và nếu như kết quả nghiên cứu khoa học của một bà đầm Đức  là khoa học  (không như ta nói dối nhiều quá):  DÒM VÚ PHỤ NỮ TĂNG TUỔI THỌ     (Blog này đã từng có bài, nằm trong nhóm truy cập nhiều nhứt, có lẽ nhiều người đã luyện tập?) thì quý ông cũng nên tập thể dục con mắt một tí nhé. Xin mượn mấy tấm ảnh của nhà nhiếp ảnh Dương Quốc Định làm  dụng cụ luyện tập, ai có điều kiện thì xài hàng thật. Bộ sưu tập những bức ảnh khỏa thân và bán khỏa thân nghệ thuật của nhiếp ảnh gia trẻ Dương Quốc Định. Rất nhiều ảnh trong bộ sưu tập này đã đoạt những giải thưởng quốc tế uy tín. Cảm ơn tác giả đã chia sẻ tác phẩm trên internet. Mời bạn xem qua phần thể hiện bộ sưu tập trên PPS của chúng tôi. Link PPS:  http://vn.360plus.yahoo.com/nns-nguyennamson/article?new=1&mid=112 Chân dung Dương Quốc Địn...

Nhớ Cần Thơ phố

Trần Hữu Hiệp B áo Dân Việt So với Thăng Long - Hà Nội ngàn năm văn hiến, cố đô Huế trầm tư hay Sài Gòn phố nhộn nhịp, thì Cần Thơ phố mang đậm đặc trưng sông nước miệt vườn. Nơi đó, hàng ngày, người Tây Đô vẫn đang sống cuộc đời bình dị. Nhớ thời học phổ thông, nhà tôi chỉ cách trung tâm Cần Thơ 20 Km, nhưng mãi đến năm 15 tuổi, lần đầu tiên mới được đến Cần Thơ cùng đội học sinh giỏi của Trường cấp III Ô Môn dự thi. Đêm, mấy thằng nhà quê lang thang, lạc đường trên phố Hòa Bình, thời đó là một  đại lộ mênh mông trong mắt nhìn bọn trẻ nhà quê chúng tôi. Ký ức Cần Thơ phố trong tôi một thời còn vang qua giọng ngâm của ai trong đêm tĩnh lặng nơi con hẻm nhỏ, bài thơ Tình trắng của Kiên Giang – Hà Huy Hà: “Cần Thơ, ơi hỡi Cần Thơ/Bóng dáng ngày xanh phủ bụi mờ/Ai nhặt giùm tôi bao kỷ niệm” … Và thơ tôi, tuổi học trò: “Ai đặt tên em tự bao giờ/Người đời hai tiếng gọi Cần Thơ/Mỗi lúc đi xa ta nhớ quá/Gặp lại hình em tron...