Chuyển đến nội dung chính

Tạo bước phát triển bền vững cho nông nghiệp Đồng bằng sông Cửu Long

Trần Hữu Hiệp
QĐND - Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có diện tích gần 40.000km2, không chỉ là vựa lúa gạo, trái cây, thủy sản mà còn là nơi bảo đảm "sức khỏe" cho nền nông nghiệp Việt Nam, có vị trí đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế đang tỏa nhiệt khi hàng ngoại “đổ bộ” vào thị trường nội với quy mô lớn, tạo ra sức ép cạnh tranh mạnh mẽ thì việc thực thi các cam kết Cộng đồng kinh tế ASEAN, sắp tới là TPP và các Hiệp định song phương Việt Nam - EU, Việt Nam - Hàn Quốc,… đang tạo ra cơ hội lớn, nhưng cũng nhiều rủi ro. Thêm vào đó, biến đổi khí hậu, nước biển dâng đưa ĐBSCL phải đối mặt trước tình trạng khô hạn, xâm nhập mặn khắc nghiệt nhất 100 năm qua... Làm gì để ĐBSCL phát triển an toàn, trù phú và bền vững trên nền tảng nông nghiệp? Đó là bài toán cần lời giải.
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng xác định các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu là: “Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh” trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế sâu rộngTrong đó, “Đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng xây dựng nền nông nghiệp hàng hóa lớn; tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; đảm bảo phát triển bền vững, an ninh lương thực quốc gia và vệ sinh an toàn thực phẩm. Tập trung phát triển sản phẩm có lợi thế so sánh, giá trị gia tăng và có khả năng tham gia hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu. Bảo vệ và sử dụng linh hoạt, hiệu quả đất trồng lúa. Khuyến khích tích tụ, tập trung ruộng đất, phát triển các vùng sản xuất quy mô lớn với hình thức đa dạng phù hợp với điều kiện của từng vùng và đặc điểm của từng sản phẩm. Gắn sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản trên cơ sở phát triển các hình thức hợp tác, liên kết đa dạng giữa hộ gia đình với các tổ chức và doanh nghiệp. Khuyến khích liên kết giữa hộ nông dân sản xuất với tổ chức tín dụng, tổ chức khoa học, công nghệ và doanh nghiệp”. "Hoàn thiện quy hoạch vùng, lấy quy hoạch làm cơ sở quản lý phát triển vùng… Tăng cường liên kết giữa các địa phương trong vùng, giữa các vùng, tạo không gian phát triển thống nhất trong vùng và cả nước”.
Có thể nhìn nhận rằng, thời gian qua, đổi mới đã tạo ra ánh hào quang, tạo thế và lực cho nông nghiệp ĐBSCL. Hội nhập đang mở ra nhiều kỳ vọng mới, nhưng cũng nhiều thách thức. Sau 30 năm Đổi mới, vùng này đã đạt được những thành tựu quan trọng, hình thành các yếu tố của các loại thị trường hàng hóa, dịch vụ, tài chính, tiền tệ. Thị trường lao động và khoa học-công nghệ cũng đang hình thành và phát triển. Nông hộ từ “vòng vây” của ngăn sông cấm chợ trong nền kinh tế không có thị trường, đã vươn lên trở thành những đơn vị “kinh tế nông hộ” năng động. Nông dân ĐBSCL ngày càng tiếp cận và ứng dụng nhanh hơn với những tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ. “Cánh đồng lớn” đạt được thành công bước đầu quan trọng trong liên kết sản xuất, tiêu thụ lúa gạo. Mô hình này không chỉ giới hạn ở sản xuất lúa, mà còn được áp dụng ở nhiều ngành hàng khác như mía đường, chăn nuôi và thủy sản. Xây dựng nông thôn mới bước đầu tạo ra diện mạo mới, tạo ra không gian sống, lao động sản xuất và hưởng thụ vật chất văn hóa, tinh thần tốt hơn cho người dân.
Trước đây, dưới sự chỉ đạo của Trung ương, ĐBSCL đã thực hiện đổi mới với động lực được bắt nguồn từ các chính sách đất đai, chính sách phát triển thị trường, phát triển doanh nghiệp, phát huy vai trò kinh tế nông hộ… đã đem lại nhiều thành công và tạo diện mạo mới cho ĐBSCL. Nhưng nhìn từ khu vực nông nghiệp, dường như nó đang dần mất đi động lực khi nông hộ, nền nông nghiệp nhỏ lẻ đang đứng trước thách thức mới, thiếu kết nối sản xuất-thị trường, hiệu quả và sức cạnh tranh yếu kém của hàng nông sản dẫn đến vòng luẩn quẩn của nông sản "trúng mùa, rớt giá”. Tăng trưởng kinh tế thiếu vững chắc, tiềm năng và lợi thế của vùng chưa được đầu tư, khai thác đúng mức. Kinh tế phát triển chủ yếu theo chiều rộng. Việc đầu tư và ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ tạo ra giá trị gia tăng thấp. Hệ thống kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ. Mức đầu tư cho vùng ĐBSCL còn thấp, đặc biệt là vốn đầu tư cho nông nghiệp chiếm tỷ trọng thấp so với tổng đầu tư toàn xã hội. Hệ thống cơ chế, chính sách trong nông nghiệp còn bất cập đã ảnh hưởng đến sức hút đầu tư của các doanh nghiệp trong và ngoài nước vào lĩnh vực này. Nguồn lực lao động trong nông thôn đang có xu hướng giảm, một bộ phận không nhỏ lao động trẻ ở nông thôn rời bỏ ruộng vườn ra thành thị, gia nhập đội ngũ lao động phổ thông di dân đến làm việc tại các thành phố lớn ngày càng tăng… Cạnh tranh nông nghiệp đang đặt ra yêu cầu giải quyết các “điểm nghẽn” tăng trưởng ở một thị trường lớn thay vì quanh quẩn bên những vườn cây, thửa ruộng, ranh giới hành chính tỉnh và tư duy ngập nước của ruộng đồng đang là thách thức phải vượt qua của ĐBSCL trên con đường ra "chợ lớn” toàn cầu với hệ quả tích cực hay tiêu cực của hội nhập quốc tế phụ thuộc vào việc tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức đó.
Do vậy, để phát triển đồng bằng, rất cần những nguồn lực mới, những mô hình phát triển mới với hiệu quả cao hơn, năng suất lao động cao hơn. Tái cơ cấu-“cuộc chuyển đổi lớn” của ngành nông nghiệp, rất cần sự tham gia mang tính quyết định của nông dân và doanh nghiệp. Người nông dân và doanh nghiệp nông thôn phải ở vị trí trung tâm và vai trò chủ thể để thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Động lực mới cho các mô hình kinh tế cần phải được bắt đầu tư chính từ nội lực của vùng, từ nguồn nhân lực bậc cao, từ khoa học và công nghệ, và từ doanh nghiệp. Vì vậy, rất cần những chính sách năng động và quyết liệt để biến các nguồn lực từ yếu tố sản xuất, trở thành nội lực mới từ thị trường bằng mô hình tăng trưởng mới như Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII đã nêu.
Để thực hiện thành công chủ trương, định hướng “phát triển vùng, liên kết vùng” như Nghị quyết đã nêu, góc nhìn từ vùng ĐBSCL là các địa phương cần phải tăng cường liên kết, nhận thấy lợi ích của việc liên kết, lấy lợi ích chung, lợi ích của toàn vùng để xác định mục tiêu liên kết. Liên kết vùng không chỉ nhằm phát huy lợi thế của từng địa phương trong vùng, mà còn phát huy lợi thế vùng và quốc gia. Do vậy, để ĐBSCL cất cánh, Chính phủ, các ban, bộ, ngành và địa phương trong khu vực cần: Quy hoạch lại sản xuất nông nghiệp theo vùng, theo quy mô liên kết vùng trên cơ sở gắn với cung - cầu thị trường. Các địa phương cần tạo môi trường thuận lợi để tăng cường các mối liên kết giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với người dân, giữa người dân với người dân nhằm tổ chức, hình thành mối liên kết giữa sản xuất, chế biến và bao tiêu nông sản hiệu quả theo chuỗi giá trị. Trên cơ sở Điều 52 - Hiến pháp 2013 về “tăng cường liên kết kinh tế vùng”, các văn bản pháp lý của Chính phủ, cần có quy chế liên kết vùng điều chỉnh trong một số lĩnh vực có thế mạnh, nhất là trong nông nghiệp, thủy sản và có thể triển khai ngay vào thực tế để phát huy hiệu quả của các mô hình liên kết đã có. Tái cấu trúc nông nghiệp ĐBSCL phải theo hướng sản xuất hàng hóa lớn. Quá trình tái cơ cấu phải chú trọng đến việc cải tiến, đổi mới cơ chế, chính sách nhằm bảo đảm tính hài hòa trong việc phân chia lợi ích giữa các khâu trong chuỗi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, ưu tiên cho chuỗi nông sản chủ lực lúa gạo, trái cây, tôm, cá tra; tập trung cải tạo giống cây trồng, vật nuôi, tạo các giống có năng suất, chất lượng và giá trị cao. Tăng cường năng lực hợp tác nghiên cứu khoa học giữa các địa phương trong vùng, giữa vùng ĐBSCL với các vùng, miền khác trong cả nước và quốc tế. Đưa nhanh các công nghệ mới vào tất cả các khâu: Sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến, vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm; xây dựng và thí điểm các khu nông nghiệp công nghệ cao dựa vào những tiến bộ khoa học-công nghệ mới, nhất là công nghệ sinh học, các mô hình liên kết, quản lý theo tiêu chí hiện đại dựa vào tri thức mới.

Tầm nhìn dài hạn và bức xúc trước mắt cho một ĐBSCL phát triển an toàn, trù phú và bền vững trước “bước chuyển lịch sử” đang đòi hỏi nhiều nỗ lực và quyết tâm. Phát triển bền vững vùng ĐBSCL trên cơ sở tăng cường liên kết vùng đang là đòi hỏi tất yếu khách quan.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

"Tính cách người Việt theo vùng miền"

Thảo luận về "Văn hoá & tính cách con người Việt theo vùng miền" trên  Trái tim Việt Nam online . Người bắc thường ăn nói nhẹ nhàng, kín đáo, thường hay suy nghĩ sâu xa. Người miền trung thì mọc mạc, chất phác lại hay có tính cục bộ. Người miền nam thì phóng khoáng cởi mở, dễ gần.Dân miền Bắc thường thể hiện mình qua lời nói, trong bất cứ tình huống nào họ cũng đều phải nói cho được. Dân miền Trung thường thể hiện mình qua thái độ, cử chỉ, còn miền Nam thì thể hiện qua phong cách. Nói chung dân Bắc-Trung-Nam đều diễn tuồng cả, cho nên lời nói lúc thì nhẹ nhàng điềm đạm, lúc lại gắt gỏng chua ngoa, thái độ có lúc thì đằm thắm, khi thì thì lại khinh bạc, phong cách thì có lúc phóng khoáng lúc lại dè dặt... Ấn tượng bên ngoài là như thế nhưng có khi bạn cũng thấy là chẳng ai tranh cãi lý luận lại người Trung, thái độ cử chỉ của dân Bắc cũng có thể khiến bạn dè chừng, và lời nói hay thái độ của dân Nam cũng khiến bạn chạy dài... Muốn kiểm chứng thì bạn cứ bỏ ra ...

ART NUDE PHOTOS của Dương Quốc Định

Quên những bộn bề lo toan giá vàng lên xuống, giá lúa, cá tra giảm, chuyện nhà khoa học phải nói dối ... để  ngắm ảnh các em xinh đẹp. Và nếu như kết quả nghiên cứu khoa học của một bà đầm Đức  là khoa học  (không như ta nói dối nhiều quá):  DÒM VÚ PHỤ NỮ TĂNG TUỔI THỌ     (Blog này đã từng có bài, nằm trong nhóm truy cập nhiều nhứt, có lẽ nhiều người đã luyện tập?) thì quý ông cũng nên tập thể dục con mắt một tí nhé. Xin mượn mấy tấm ảnh của nhà nhiếp ảnh Dương Quốc Định làm  dụng cụ luyện tập, ai có điều kiện thì xài hàng thật. Bộ sưu tập những bức ảnh khỏa thân và bán khỏa thân nghệ thuật của nhiếp ảnh gia trẻ Dương Quốc Định. Rất nhiều ảnh trong bộ sưu tập này đã đoạt những giải thưởng quốc tế uy tín. Cảm ơn tác giả đã chia sẻ tác phẩm trên internet. Mời bạn xem qua phần thể hiện bộ sưu tập trên PPS của chúng tôi. Link PPS:  http://vn.360plus.yahoo.com/nns-nguyennamson/article?new=1&mid=112 Chân dung Dương Quốc Địn...

Nhớ Cần Thơ phố

Trần Hữu Hiệp B áo Dân Việt So với Thăng Long - Hà Nội ngàn năm văn hiến, cố đô Huế trầm tư hay Sài Gòn phố nhộn nhịp, thì Cần Thơ phố mang đậm đặc trưng sông nước miệt vườn. Nơi đó, hàng ngày, người Tây Đô vẫn đang sống cuộc đời bình dị. Nhớ thời học phổ thông, nhà tôi chỉ cách trung tâm Cần Thơ 20 Km, nhưng mãi đến năm 15 tuổi, lần đầu tiên mới được đến Cần Thơ cùng đội học sinh giỏi của Trường cấp III Ô Môn dự thi. Đêm, mấy thằng nhà quê lang thang, lạc đường trên phố Hòa Bình, thời đó là một  đại lộ mênh mông trong mắt nhìn bọn trẻ nhà quê chúng tôi. Ký ức Cần Thơ phố trong tôi một thời còn vang qua giọng ngâm của ai trong đêm tĩnh lặng nơi con hẻm nhỏ, bài thơ Tình trắng của Kiên Giang – Hà Huy Hà: “Cần Thơ, ơi hỡi Cần Thơ/Bóng dáng ngày xanh phủ bụi mờ/Ai nhặt giùm tôi bao kỷ niệm” … Và thơ tôi, tuổi học trò: “Ai đặt tên em tự bao giờ/Người đời hai tiếng gọi Cần Thơ/Mỗi lúc đi xa ta nhớ quá/Gặp lại hình em tron...