VFPress,
ngày 22/03/2016
Giá
lúa gạo nội địa nhảy vọt, nhu cầu
tăng, lẽ ra mừng nhưng lại lo cạnh tranh nguồn cung giữa xuất khẩu chính ngạch
và tiểu ngạch, áp lực cạnh tranh về giá xuất khẩu, về nạn đầu cơ, trong khi sản
lượng gạo Việt Nam sẽ sụt giảm mạnh do hạn hán, xâm nhập mặn. Thế nhưng, những
chiến lược hợp lý cho ngành lúa gạo thì đến giờ vẫn loay hoay.
Diễn biến thị trường gạo
Việt Nam những ngày gần đây nóng lên trước việc các doanh nghiệp (DN) và thương
lái đua nhau gom hàng đã đẩy giá lúa gạo liên tục tăng cao, trong khi nguồn
cung lúa gạo trong nước năm 2016 được dự báo sẽ sụt giảm mạnh do ảnh hưởng của
hạn và xâm nhập mặn ở vựa lúa Đồng bằng sông Cửu Long (sẽ giảm ít nhất 300.000
tấn vụ đông xuân 2015-2016 so với cùng kỳ năm ngoái).
Nhiều mối lo
Trong khi đó, từ tháng
3/2016, lượng hợp đồng đăng ký xuất khẩu còn lại chờ giao là 1,392 triệu tấn,
tăng 46% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó, hợp đồng tập trung là 365.000 tấn
và hợp đồng thương mại là 1,027 triệu tấn.
Đó là chưa kể sự cạnh
tranh quyết liệt về nguồn cung giữa xuất khẩu chính ngạch và tiểu ngạch sang
thị trường Trung Quốc. Điều đáng nói là theo dự báo, Trung Quốc sẽ nhập đến 5
triệu tấn gạo nhưng chưa chắc đã tăng mua theo đường chính ngạch. Ngoài ra, giá
lúa gạo bị đẩy lên cao còn bởi nạn đầu cơ do tâm lý hạn hán dẫn đến thiếu lúa
gạo.
Giới chuyên gia nhận
định điều này ảnh hưởng không nhỏ đến các hợp đồng đã ký kết với đối tác nước
ngoài thời điểm giá còn thấp. Ngay trong cạnh tranh xuất khẩu, hiện giá gạo 5%
tấm ở trong nước là 380-390 USD/tấn, trong khi Thái Lan chỉ 360 USD/tấn, nên
rất khó bán cho thị trường thế giới.
Thực tế cho thấy áp lực
cạnh tranh đối với gạo Việt hiện nay không chỉ là giá mà còn là chất lượng,
thương hiệu sản phẩm. Hơn 200 doanh nghiệp của Việt Nam có quy mô trung bình và
lớn tham gia vào hệ thống thương mại gạo sẽ đối mặt nhiều vấn đề còn tồn tại
khi mức độ cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt như hiện nay.
Dự báo của Bộ Công
Thương cho thấy xuất khẩu gạo trong năm 2016 sẽ vấp phải sự cạnh tranh từ các
nước xuất khẩu gạo lớn như Thái Lan, Ấn Độ, Pakistan…, không chỉ về giá mà còn
về chất lượng, thương hiệu.
Chỉ ra bất cập của vấn
đề này, Gs Võ Tòng Xuân cho biết, trên cùng một cánh đồng có nhiều giống lúa,
thương lái mua về rồi trộn chung lại để sơ chế, sau đó bán cho DN chế biến để
xuất khẩu gạo, không thể truy nguyên nguồn gốc. Vì vậy, đến nay, Việt Nam vẫn
chưa có được loại gạo nào có thương hiệu mạnh.
Áp lực cạnh tranh đối
với gạo Việt hiện nay không chỉ là giá mà còn là chất lượng, thương hiệu sản
phẩm
Băn khoăn chiến
lược
Trong một tham luận gần
đây, Ts Lê Văn Bảnh, nguyên Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL, cho rằng giải pháp phát
triển thị trường lúa gạo có thể xem là biện pháp lâu dài để kích thích và ổn
định sản xuất, giảm thiểu rủi ro cho nông dân và gia tăng lợi nhuận.
Ts Bảnh cho biết, trong
quá trình tái cơ cấu trong sản xuất, ngành nông nghiệp có chủ trương giảm diện
tích trồng lúa. Nhưng trồng cây gì lại là một vấn đề, từ khâu giống, canh tác,
cơ giới hóa cho đến xử lý sau thu hoạch, vấn đề quan trọng là thị trường, thu
nhập…
Cũng theo Ts Bảnh, việc
chuyển đổi cơ cấu cây trồng cần phải quan tâm liên kết vùng, tùy đất đai thổ
nhưỡng từng vùng sinh thái chứ không phải nơi nào trồng lúa nước được thì dễ
dàng trồng những loại cây khác, giá thành sản xuất và tiêu thụ ở đâu là vấn đề
lớn.
Cũng nên nhắc thêm, ông
Trần Hữu Hiệp, Vụ trưởng Vụ Kinh tế Ban chỉ đạo Tây Nam Bộ, đã than phiền rằng
danh xưng “Vựa lúa quốc gia” dành cho ĐBSCL đã có từ lâu đời, nhưng nay cần
nhận thức lại. Đã đến lúc người miền Tây không cần tự hào về mỹ từ “vựa lúa”.
Hay nhìn rộng ra, theo
ông Trần Hữu Hiệp, người Việt Nam chúng ta cũng không cần thiết phải tự hào là
cường quốc số một, số hai thế giới về xuất khẩu gạo; không cần thiết phải tự
hào về “Vựa lúa quốc gia” hay “Bát cơm châu Á”. Tự hào làm gì khi những người
làm ra thật nhiều nông sản cung ứng cho toàn cầu mà vẫn còn nhiều khó khăn…
Còn nhóm nghiên cứu của
Ts Nguyễn Đỗ Anh Tuấn và Ts Nguyễn Trung Kiên, Viện Chính sách và chiến lược
phát triển nông nghiệp nông thôn, đã từng có lưu ý Hiệp hội Lương thực Việt Nam
(VFA) đang hoạt động như một cơ quan quản lý ngành hàng, nhất là quản lý việc
kinh doanh xuất khẩu gạo dựa trên các biện pháp hành chính là chủ yếu. Điều này
đôi lúc đã làm cho thị trường lúa gạo của nước ta bị bóp méo, cứng nhắc, thiếu
sự năng động đối với thị trường trong và ngoài nước.
Cũng theo nhóm nghiên
cứu này, VFA đã bỏ qua một số vai trò mà các hiệp hội ngành hàng phải tham gia
như xây dựng chiến lược phát triển ngành hàng, xây dựng và quảng bá thương
hiệu, phát triển và ổn định nguồn cung trong nước, mở rộng hội viên theo liên
kết dọc nhằm kết nối hợp tác và phát triển theo chuỗi giá trị ngành hàng hiệu
quả hơn…
Những lưu ý này, liệu
đến nay, các cơ quan quản lý và VFA có ghi nhận để thay đổi?
Nhận xét
Đăng nhận xét