Chuyển đến nội dung chính

Cây lúa, con cá tra và người nông dân


Quốc Trung
Đồng bằng sông Cửu Long - vựa lúa, vựa trái cây, vựa cá... nhưng sao người dân chưa giàu? Đã đến lúc phải tìm cho ra câu trả lời cho thực tế ấy để người dân miền Tây được mát mày mát mặt.
Chạy theo giá lúa, bơi theo con cá

Tái cơ cấu ngành trồng lúa bắt đầu từ đâu? Câu trả lời chắc chắn không phải là bỏ cây lúa, chọn con cá, con tôm hay cây trồng, vật nuôi nào khác theo suy nghĩ kiểu cũ dựa vào "nguồn cung”, quên đi "hướng cầu”  mà phải bắt đầu từ "đổi mới tư duy làm nông nghiệp”. Như vậy mới giúp hàng chục triệu nông dân ĐBSCL vượt qua thách thức, trở thành "doanh nhân nông nghiệp”, làm giàu được bằng nghề nông.
Cho tới nay ĐBSCL, lúa vẫn là cây trồng chính, truyền thống. Chỉ hơn 2 thập niên gần đây, sản lượng lúa của vùng này đã được nhân lên hơn gấp đôi, từ hơn 9 triệu tấn (năm 1990) lên gần 25 triệu tấn (năm 2013), kim ngạch xuất khẩu gạo luôn chiếm khoảng 90% cả nước. Nhiều năm qua, ĐBSCL luôn là nơi xuất khẩu gạo chủ lực của cả nước.

Tuy nhiên những năm gần đây, lĩnh vực hàng đầu này đang gặp phải nhiều khó khăn. Điệp khúc được mùa rớt giá cứ đeo đẳng người nông dân mãi không thôi, diện tích lúa theo đó cũng đang bị thu hẹp dần. Những bức xúc từ lúa gạo và nông dân đang đòi hỏi sự tiếp cận, sử dụng linh hoạt hơn đối với quy hoạch sử dụng đất. Nhiều ý kiến của các chuyên gia cho rằng, cần áp dụng chính sách trong việc phân vùng giữa các khu vực trồng lúa, phân rõ mục tiêu sản xuất lúa để đảm bảo an ninh lương thực hay lúa hàng hóa, tách biệt hẳn các hệ thống và chiến lược xuất khẩu gạo mang "tính chính trị - xã hội” với tính thương mại, để có chính sách rõ ràng. 

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã từng chia sẻ: "Sản xuất nông nghiệp là nền tảng, một trục phát triển, là trụ đỡ của nền kinh tế; cải thiện đời sống người dân, giảm nghèo. Nông nghiệp tăng trưởng liên tục và toàn diện nhưng nhìn lại, tốc độ đang chậm lại, thu nhập người dân ngày càng giảm. Người lao động trong nông nghiệp còn nhiều khó khăn…”. Và Thủ tướng cũng đã chỉ nguyên nhân: do chi phí sản xuất tăng, trong khi giá bán lại thấp, kéo theo thu nhập của người dân thấp, năng suất lao động trong nông nghiệp chậm được cải thiện. Theo Bộ NN&PTNT, chỉ có 25% nông dân tiếp cận được với các thông tin thị trường, hiện có tới 90% sản phẩm nông nghiệp được bán ra ở dạng thô và 60% sản phẩm bị ép bán với giá thấp.

Con cá tra cũng vậy, sau khi khẳng định được vị trí trong nước, vươn ra thế giới đem lại nhiều ngoại tệ cho đất nước, đem lại sự giàu có cho nhiều nông dân trong những năm 2000, thì những năm sau đó lại rơi vào khủng hoảng. Cụ thể, tình trạng giá cá tra nguyên liệu giảm mạnh thời gian qua là hậu quả của sự phát triển quá nhanh cả trong khâu nuôi và chế biến. Thể hiện rõ trước năm 2008, toàn vùng ÐBSCL chỉ có trên dưới 30 nhà máy chế biến cá tra xuất khẩu, nhưng sau đó các địa phương ùn ùn xây nhà máy, mở rộng diện tích nuôi...vượt tầm quản lý của các ngành chức năng. Mặc dù cá tra xuất khẩu kim ngạch một năm đạt 1,8 tỷ USD nhưng hầu hết vẫn là phi lê đông lạnh, sản phẩm giá trị gia tăng chỉ chừng 1%. 

Cũng như trong một cuộc chiến đấu trường kỳ, cây lúa – hạt gạo, con cá tra, người nông dân ĐBSCL đã vấp phải những khó khăn, thậm chí là thất bại. GS.TS Võ Tòng Xuân day dứt: Nông dân trồng lúa, thành phần đông đảo nhất của nước ta tuy sản xuất khối lượng lúa để chế biến ra gạo xuất khẩu đưa Việt Nam đứng vào hàng thứ nhất, nhì trên thế giới, lại là tầng lớp nghèo nhất. Hầu hết nông dân phải lo bán đổ bán tháo lúa mới vừa gặt, thậm chí bán cả lúa non để trang trải nợ nần… 

Còn TS Lê Văn Bảnh, Viện trưởng Viện lúa ĐBSCL cho biết: Mang tiếng là xuất khẩu sản lượng hàng đầu thế giới nhưng thời gian qua ta không làm chủ được thị trường. Cũng như con cá tra, nhiều năm qua Việt Nam "một mình một chợ” nhưng chưa bao giờ làm chủ được giá cả để rồi tự bơi theo nó...  Xuất khẩu số lượng lớn mà sản phẩm không có thương hiệu thì ngang bằng làm thuê cho thiên hạ. Đấy cũng là kết quả của quá trình đầu tư thiên về chiều rộng, thiếu chiều sâu đa dạng sản phẩm, tăng hàm lượng công nghệ…

Đã đến lúc phải làm một cuộc cách mạng

Trong các cuộc kháng chiến, nông dân là lực lượng hùng hậu quyết định mọi thắng lợi. Sau khi hòa bình, nông dân được giao trọng trách "đảm bảo an ninh lương thực quốc gia” qua nghề trồng lúa. Họ không chỉ hoàn thành tốt nhiệm vụ nuôi sống cả dân tộc mà còn biến Việt Nam từ nước thiếu đói trở thành một cường quốc xuất khẩu gạo, giữ vững sự ổn định kinh tế - chính trị của đất nước, ngay cả trong thời kỳ bị tác động nặng nề của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. 

Trên thực tế Chính phủ đã tính toán tới chuyện này. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nhấn mạnh, cần phải nhanh chóng "tái cơ cấu lại nông nghiệp, hay nói cách khác là tổ chức lại sản xuất nông nghiệp theo hướng hiệu quả cao hơn và bền vững hơn gắn với xây dựng nông thôn mới là đòi hỏi tất yếu của quá trình phát triển…”. Đồng thời xem đây là vấn đề mấu chốt mà các bộ ngành cần phải tính toán và sớm đưa ra những quyết sách, điều chỉnh hợp lý nhằm vực dậy và đưa ngành nông nghiệp của cả nước nói chung và của ĐBSCL nói riêng. 

Tuy nhiên làm gì đi nữa thì việc đầu tiên vẫn không thể tách rời, xem nhẹ vai trò tham mưu, đề xuất của các địa phương mà trong đó cụ thể là người nông dân, phải tìm và hiểu rõ người dân bây giờ muốn gì, cần gì để đưa ra quyết sách cho đúng, hợp lý... mới tạo được sức mạnh tổng hợp làm nên "cuộc cách mạng xanh”...  

Trong kháng chiến, có lúc phong trào bị đàn áp, thoái trào, cán bộ bị bắt, bị tù đày, người dân khốn khó, lầm than, thế cách mạng "ngàn cân treo sợi tóc”... Nhưng cuối cùng ta vẫn làm nên chiến thắng. Sở dĩ như vậy là do quần chúng nhân dân luôn tin tưởng vào đường lối, chính sách của Đảng. Bên cạnh đó, Đảng luôn tin dân, biết dựa vào dân để phát động những cuộc đấu tranh, tiến công chiến lược để giành thắng lợi cuối cùng. Có những chủ trương, quyết sách đúng, kịp thời để xoay chuyển tình thế. Biết phát huy sức mạnh tổng hợp: 3 mũi giáp công, 3 thứ quân, 3 vùng chiến lược...

Ngoài ra, để người nông dân tin vào Đảng thì Đảng, Nhà nước phải cùng lo và giúp cho nông dân, thông qua việc làm cụ thể: tạo điều kiện vay vốn thuận lợi, dễ dàng; đầu tư hoàn thiện kết cấu hạ tầng nông thôn; chú trọng đầu tư giáo dục, nâng cao dân trí; quan tâm tạo điều kiện nghiên cứu, chuyển giao ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất - chế biến - bảo quản những nông sản chủ lực của vùng (trong đó có lúa - gạo, cá tra). Điều cốt yếu là Đảng và Nhà nước phải có những quyết sách hợp lý, kịp thời, không thể để nông dân tự bơi trong sân chơi toàn cầu, không thể để chuỗi giá trị trong nông nghiệp tiếp tục bị cắt vụn: nông dân chỉ biết nuôi trồng, không biết gì về nhu cầu thị trường, không tự quyết về giá bán; chuyện mua bán do thương lái làm chủ, tùy tiện ép giá; doanh nghiệp thì khư khư thủ lợi, chỉ hợp tác với nông dân khi thấy dễ kiếm lời, không có quan hệ hợp tác căn cơ, lâu dài, vì lợi ích hài hòa của cả 2 bên.

Chia sẻ với Đại Đoàn Kết, ông Trần Hữu Hiệp - Vụ trưởng Vụ Kinh tế, Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ cho rằng, việc tái cơ cấu ngành nông nghiệp trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. "Tái cơ cấu ngành trồng lúa” bắt đầu từ đâu? Câu trả lời chắc chắn không phải là bỏ cây lúa, chọn con cá, con tôm hay cây trồng, vật nuôi nào khác theo suy nghĩ kiểu cũ - dựa vào "nguồn cung”, quên đi "hướng cầu”,  mà phải bắt đầu từ "đổi mới tư duy làm nông nghiệp”. Tái cơ cấu ở vùng trọng điểm lúa số 1 của cả nước cần được bắt đầu từ chính những yếu kém nội tại và tận dụng lợi thế của vùng này trước thách thức cạnh tranh nông nghiệp ngày càng gay gắt, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Hơn cả tái cơ cấu, phải là cuộc lột xác thật sự. Nó phải được tiến hành bằng tư duy, chính sách dài hạn hơn là những đối phó ngắn hạn. Nó phải là quá trình hiện đại hóa ngành sản xuất lúa gạo và xây dựng nông thôn mới, giúp hàng chục triệu nông dân ĐBSCL vượt qua thách thức, trở thành "doanh nhân nông nghiệp”, làm giàu được bằng nghề nông.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

"Tính cách người Việt theo vùng miền"

Thảo luận về "Văn hoá & tính cách con người Việt theo vùng miền" trên  Trái tim Việt Nam online . Người bắc thường ăn nói nhẹ nhàng, kín đáo, thường hay suy nghĩ sâu xa. Người miền trung thì mọc mạc, chất phác lại hay có tính cục bộ. Người miền nam thì phóng khoáng cởi mở, dễ gần.Dân miền Bắc thường thể hiện mình qua lời nói, trong bất cứ tình huống nào họ cũng đều phải nói cho được. Dân miền Trung thường thể hiện mình qua thái độ, cử chỉ, còn miền Nam thì thể hiện qua phong cách. Nói chung dân Bắc-Trung-Nam đều diễn tuồng cả, cho nên lời nói lúc thì nhẹ nhàng điềm đạm, lúc lại gắt gỏng chua ngoa, thái độ có lúc thì đằm thắm, khi thì thì lại khinh bạc, phong cách thì có lúc phóng khoáng lúc lại dè dặt... Ấn tượng bên ngoài là như thế nhưng có khi bạn cũng thấy là chẳng ai tranh cãi lý luận lại người Trung, thái độ cử chỉ của dân Bắc cũng có thể khiến bạn dè chừng, và lời nói hay thái độ của dân Nam cũng khiến bạn chạy dài... Muốn kiểm chứng thì bạn cứ bỏ ra ...

ART NUDE PHOTOS của Dương Quốc Định

Quên những bộn bề lo toan giá vàng lên xuống, giá lúa, cá tra giảm, chuyện nhà khoa học phải nói dối ... để  ngắm ảnh các em xinh đẹp. Và nếu như kết quả nghiên cứu khoa học của một bà đầm Đức  là khoa học  (không như ta nói dối nhiều quá):  DÒM VÚ PHỤ NỮ TĂNG TUỔI THỌ     (Blog này đã từng có bài, nằm trong nhóm truy cập nhiều nhứt, có lẽ nhiều người đã luyện tập?) thì quý ông cũng nên tập thể dục con mắt một tí nhé. Xin mượn mấy tấm ảnh của nhà nhiếp ảnh Dương Quốc Định làm  dụng cụ luyện tập, ai có điều kiện thì xài hàng thật. Bộ sưu tập những bức ảnh khỏa thân và bán khỏa thân nghệ thuật của nhiếp ảnh gia trẻ Dương Quốc Định. Rất nhiều ảnh trong bộ sưu tập này đã đoạt những giải thưởng quốc tế uy tín. Cảm ơn tác giả đã chia sẻ tác phẩm trên internet. Mời bạn xem qua phần thể hiện bộ sưu tập trên PPS của chúng tôi. Link PPS:  http://vn.360plus.yahoo.com/nns-nguyennamson/article?new=1&mid=112 Chân dung Dương Quốc Địn...

Nhớ Cần Thơ phố

Trần Hữu Hiệp B áo Dân Việt So với Thăng Long - Hà Nội ngàn năm văn hiến, cố đô Huế trầm tư hay Sài Gòn phố nhộn nhịp, thì Cần Thơ phố mang đậm đặc trưng sông nước miệt vườn. Nơi đó, hàng ngày, người Tây Đô vẫn đang sống cuộc đời bình dị. Nhớ thời học phổ thông, nhà tôi chỉ cách trung tâm Cần Thơ 20 Km, nhưng mãi đến năm 15 tuổi, lần đầu tiên mới được đến Cần Thơ cùng đội học sinh giỏi của Trường cấp III Ô Môn dự thi. Đêm, mấy thằng nhà quê lang thang, lạc đường trên phố Hòa Bình, thời đó là một  đại lộ mênh mông trong mắt nhìn bọn trẻ nhà quê chúng tôi. Ký ức Cần Thơ phố trong tôi một thời còn vang qua giọng ngâm của ai trong đêm tĩnh lặng nơi con hẻm nhỏ, bài thơ Tình trắng của Kiên Giang – Hà Huy Hà: “Cần Thơ, ơi hỡi Cần Thơ/Bóng dáng ngày xanh phủ bụi mờ/Ai nhặt giùm tôi bao kỷ niệm” … Và thơ tôi, tuổi học trò: “Ai đặt tên em tự bao giờ/Người đời hai tiếng gọi Cần Thơ/Mỗi lúc đi xa ta nhớ quá/Gặp lại hình em tron...