(Thứ Năm, 26/12/2013 14:41)
Radiovietnam-Lúa gạo, trái cây và
thủy sản là những sản phẩm chủ lực của vùng ĐBSCL. Tuy nhiên, mối liên kết giữa
các địa phương trong vùng để phát huy các thế mạnh trên còn lỏng lẻo.
Nghe nội dung chi tiết tại
đây:
Từ lâu, lúa gạo, trái cây và thủy
sản là những sản phẩm chủ lực, là thế mạnh của vùng ĐBSCL. Tuy nhiên, mối liên
kết giữa các địa phương trong vùng để phát huy các thế mạnh nói trên còn lỏng lẻo.
Ngoài ra, chưa có sự tách bạch trong khái niệm "vùng"; quy chế quản
trị vùng, cơ chế phối hợp hạn chế; tình trạng cạnh tranh cục bộ dẫn đến phá vỡ
quy hoạch chung… là những thách thức đối với các dòng sản phẩm chủ lực vùng
ĐBSCL trong nhiều năm qua.
Nhiều vấn đề chồng chéo
Theo Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, thời
gian qua, Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ đã phối hợp với các địa phương trong vùng chỉ
đạo, kiểm tra, đôn đốc, tham mưu, đề xuất các chính sách phát triển các sản phẩm
chủ lực nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội chung của vùng.
Tuy nhiên, hoạt động thực tiễn
đang đặt ra nhiều vấn đề cần hoàn thiện, đặc biệt là cần có cơ chế pháp lý về
liên kết vùng hiệu quả, thiết thực. Vùng kinh tế, trong đó có vùng ĐBSCL không
phải là đơn vị hành chính-kinh tế nên việc phân bổ ngân sách, nguồn lực đầu tư
hoàn toàn do Trung ương đảm nhiệm. Sự đầu tư của Trung ương và các tỉnh, thành
chủ yếu là để phát triển kinh tế-xã hội chung của địa phương, qua đó đóng góp
cho vùng.
Thạc
sĩ Trần Hữu Hiệp, Vụ trưởng Vụ Kinh tế, Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, cho biết:
"Việc phân vùng kinh tế hiện nay mang tính chất tương đối, chủ yếu phục vụ
yêu cầu chỉ đạo, định hướng chính sách. Đây là nguyên nhân khiến không gian
kinh tế vùng bị chia cắt và thu hẹp. Nhiều cụm ngành kinh tế và các sản phẩm thế
mạnh mà các địa phương có lợi thế chung không được liên kết hoặc lợi thế so
sánh không được phát huy mà còn cạnh tranh cục bộ lẫn nhau, chuỗi giá trị ngành
hàng bị cắt khúc. Đó là chưa kể tình trạng đầu tư trùng lắp, tính gia tăng giá
trị thấp, suất đầu tư cao do không tận dụng được "lợi thế cùng chung"
trên cơ sở phân công nội bộ vùng và liên vùng".
Tại Hội thảo khoa học "Giải
pháp khai thác tiềm năng kinh tế - xã hội các tỉnh ĐBSCL theo hướng liên kết
vùng", do Trường Đại học Cần Thơ tổ chức vừa diễn ra tại TP Cần Thơ, nhiều
ý kiến cho rằng, cơ cấu kinh tế của các tỉnh, thành trong vùng có đặc điểm
chung là hoạch định chiến lược theo hướng tăng công nghiệp, dịch vụ, giảm
nông-lâm ngư nghiệp. Nghĩa là hướng đến cơ cấu kinh tế tương tự nhau hơn là tận
dụng lợi thế chung (hợp tác) và khai thác lợi thế so sánh (đặc thù) của từng địa
phương…
Là một trong những thế mạnh của
vùng ĐBSCL, song cây ăn trái vẫn chưa có những chính sách đồng bộ để phát triển
ngành hàng này.
Dễ thấy nhất là tình trạng tỉnh,
thành nào cũng có khu, cụm công nghiệp, chợ đầu mối hoặc có xu hướng chạy đua để
xây dựng khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, trung tâm giống… Kết quả là đầu
tư dàn trải, chậm phát huy hiệu quả. Nhiều ý kiến cho rằng, thực trạng hiện nay
là cấp tỉnh đang chi phối và quyết định sự phát triển kinh tế vùng.
Do đó, kinh tế ĐBSCL mặc dù có
nhiều lợi thế về sản phẩm mũi nhọn nhưng chưa thể phát huy như mong muốn. Bên cạnh
đó, ĐBSCL còn bộc lộ yếu kém trong sử dụng tài nguyên nông nghiệp theo lợi thế
tiểu vùng sinh thái. Điều này được thể hiện qua việc quy hoạch và sử dụng quy
hoạch sản xuất, thường được thực hiện cấp tỉnh hơn là cấp vùng.
Thêm vào đó, kế hoạch đầu tư theo
kiểu đơn lẻ từng Bộ, ngành; từ trên xuống một chiều và theo cơ chế
"xin-cho" vẫn còn diễn ra. Cách làm đơn lẻ này dẫn đến nhiều khó khăn
trong việc tập trung vùng nguyên liệu để kêu gọi đầu tư chế biến nông, thủy sản;
khó tổ chức nông dân khai thác lợi thế so sánh, tạo vùng nguyên liệu và nối kết
với thị trường…
Các chuyên gia nhận định, bên cạnh
tổ chức quản trị vùng và cơ chế phối hợp giữa các tỉnh còn hạn chế, thì cơ chế
chính sách nhằm định hướng và hỗ trợ sự phát triển các sản phẩm chủ lực của
vùng chưa có sự đồng bộ. Thống kê từ Viện Nghiên cứu Phát triển ĐBSCL, thời
gian qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành hơn 400 văn bản đối với ba sản phẩm chủ
lực của vùng: lúa gạo, thủy sản và cây ăn quả.
Trong đó, chính sách đưa ra nhiều
nhất về lúa gạo chiếm 50%, thủy sản 40% và cây ăn trái chỉ chiếm 10%.
"Các chính sách thể hiện tầm
nhìn chiến lược, góp phần làm tăng sản lượng và xuất khẩu. Tuy nhiên, mặt hạn
chế của chính sách là nặng thúc đẩy phát triển sản xuất hơn là tiếp cận thị trường;
thiếu đánh giá, phản hồi dẫn đến tình trạng chồng chéo và chậm cải tiến; thiếu
lồng ghép về chiến lược thích ứng với biến đổi khí hậu và thiếu liên kết công cụ
chính sách. Chẳng hạn, liên kết sản xuất, tiêu thụ lúa theo mô hình "Cánh
đồng lớn" chưa gắn với Nghị định 109/NĐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo,
Quyết định 80/2002/QĐ-TTg về khuyến khích tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng,
Quyết định 63/2010/QĐ-TTg và 65/2011/QĐ-TTg về cơ chế, chính sách hỗ trợ nhằm
giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông, thủy sản hoặc các cơ chế hỗ trợ tài
chính, tín dụng để kết nối chuỗi…" - Tiến sĩ Nguyễn Văn Sánh, Viện trưởng
Viện Nghiên cứu Phát triển ĐBSCL nhận xét.
Tìm giải pháp thỏa đáng
Từ thực trạng trên, nhiều ý kiến
cho rằng cần thống nhất, quán triệt chủ trương, xây dựng chương trình liên kết
vùng, cơ chế chính sách, khung hợp tác cho vùng.
Thạc
sĩ Trần Hữu Hiệp cho biết: "Thủ tướng Chính phủ đã thống nhất chủ trương
liên kết vùng ĐBSCL, Quy chế liên kết vùng cũng đã được dự thảo, đang lấy ý kiến
đóng góp. Song, từ chủ trương đến hiện thực là cả một quá trình, đòi hỏi phải
được quán triệt, chỉ đạo triển khai quyết liệt, đồng bộ với sự phối hợp chặt chẽ
và hiệu quả".
Theo
ông Hiệp, trước hết, chương trình liên kết vùng ĐBSCL cần tập trung vào 3 sản
phẩm mũi nhọn: lúa gạo, trái cây, thủy sản (tôm, cá tra); liên kết vùng trong
đào tạo nghề cho nông dân để phát triển sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm trên.
Thời gian qua, nhiều chính sách của
Chính phủ, chương trình, dự án trong và ngoài nước đầu tư vào vùng ĐBSCL, nhưng
kết quả đạt được không như mong muốn. Vì vậy, theo Tiến sĩ Nguyễn Văn Sánh, thực
hiện chủ trương tái cơ cấu nông nghiệp tại ĐBSCL cần phải giải quyết các hạn chế
đối với nông dân (sản xuất nhỏ và năng lực quản lý kém), nông nghiệp (giá trị
kém và tính cạnh tranh thấp) và nông thôn (lạc hậu và tổn thương cao), biến đổi
khí hậu cùng với tình trạng khan hiếm đất nông nghiệp.
Một số ý kiến đề nghị Chính phủ
ban hành cơ chế, chính sách đặc thù thu hút đầu tư vào 3 sản phẩm chủ lực; tập
trung hoàn thiện cơ cở hạ tầng kinh tế; khai thông các kênh tín dụng (vốn ngân
sách, ODA, FDI, vốn doanh nghiệp, vốn tín dụng ngân hàng) và đào tạo nguồn nhân
lực để phát triển các sản phẩm chủ lực này…
Ông Trương Văn Kiệm, Phó Chủ tịch
Liên minh Hợp tác xã TP Cần Thơ, đề xuất: "Để khắc phục nhược điểm, rào cản
đưa các sản phẩm chủ lực của vùng phát triển cần thực hiện đồng bộ nhiều giải
pháp. Trong đó, liên kết trong sản xuất (nông dân-nông dân, nông dân-doanh nghiệp)
với những những mô hình hợp tác xã, tổ hợp tác, câu lạc bộ, "Cánh đồng lớn"…
cần được nhân rộng.
Liên kết nông dân-nông dân nhằm
thực hiện "hành động tập thể" và lợi ích từ "hành động tập thể"
mang lại phải lớn hơn hành động riêng lẻ do từng cá nhân quyết định. Làm tốt
liên kết giữa nông dân-nông dân cũng nhằm tạo ra điều kiện nội lực để thực hiện
liên kết nông dân-doanh nghiệp"
Ở lĩnh vực thủy sản, trước
những bất cập trong hợp đồng tiêu thụ cá tra thời gian qua, các địa phương
trong vùng cho rằng việc liên kết các bên trong chuỗi giá trị sản xuất, chế biến
và tiêu thụ cá tra là điều cần thiết. Trong đó, cần giải quyết căn cơ từ góc độ
quản lý Nhà nước đến quy trình quản lý kỹ thuật, ký kết hợp đồng và các chế tài
kèm theo để phát huy được hiệu quả của việc tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng
như Quyết định 80/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đã ban hành.
Thông tin từ Ban Chỉ đạo Tây Nam
Bộ, hiện Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, Trường Đại học Cần Thơ, Viện Lúa ĐBSCL, Viện
Cây ăn quả Miền Nam phối hợp với các bộ, ngành liên quan và 13 tỉnh, thành vùng
ĐBSCL xây dựng Chương trình Phát triển bền vững các ngành hàng nông nghiệp chủ
lực ở ĐBSCL thông qua liên kết vùng, với sự tham gia của "4 nhà".
Chương trình gồm 5 dự án: Phát
triển sản xuất và tiêu thụ lúa gạo; phát triển sản xuất và tiêu thụ trái cây; hỗ
trợ đề án cá tra và tôm qua tham gia "4 nhà"; liên kết đào tạo nghề
nông thôn để thực hiện 3 dự án trên và nghề phi nông nghiệp theo yêu cầu địa
phương; cơ chế, tổ chức và chính sách thực hiện các dự án nêu trên.
Nếu Chương trình trên được Chính
phủ thông qua, tổ chức thực hiện một cách bài bản, đúng quy trình sẽ là nền tảng
khoa học và thực tiễn vững chắc để phát triển, cải thiện năng lực cạnh tranh
ngành hàng chủ lực. Qua đó tăng thu nhập cho nông dân trồng lúa, trái cây, nuôi
trồng thủy sản trong bối cảnh ứng phó với biến đổi khí hậu; góp phần đảm bảo an
ninh lương thực quốc gia và phát triển bền vững nông thôn vùng ĐBSCL...
Chuyện mục Theo dòng thời sự (Đài
PT&TH Hậu Giang
Nhận xét
Đăng nhận xét