Chuyển đến nội dung chính

Liên kết phát triển các dòng sản phẩm chủ lực vùng


Báo Cần Thơ, Chủ nhật, 22/12/2013 21 giờ 05 GMT+0
Từ lâu, lúa gạo, trái cây và thủy sản là những sản phẩm chủ lực, là thế mạnh của vùng ĐBSCL. Tuy nhiên, mối liên kết giữa các địa phương trong vùng để phát huy các thế mạnh nói trên còn lỏng lẻo. Ngoài ra, chưa có sự tách bạch trong khái niệm "vùng"; quy chế quản trị vùng, cơ chế phối hợp hạn chế; tình trạng cạnh tranh cục bộ dẫn đến phá vỡ quy hoạch chung… là những thách thức đối với các dòng sản phẩm chủ lực vùng ĐBSCL trong nhiều năm qua.
* Nhiều vấn đề chồng chéo
Theo Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, thời gian qua, Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ đã phối hợp với các địa phương trong vùng chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc, tham mưu, đề xuất các chính sách phát triển các sản phẩm chủ lực nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội chung của vùng. Tuy nhiên, hoạt động thực tiễn đang đặt ra nhiều vấn đề cần hoàn thiện, đặc biệt là cần có cơ chế pháp lý về liên kết vùng hiệu quả, thiết thực. Vùng kinh tế, trong đó có vùng ĐBSCL không phải là đơn vị hành chính-kinh tế nên việc phân bổ ngân sách, nguồn lực đầu tư hoàn toàn do Trung ương đảm nhiệm. Sự đầu tư của Trung ương và các tỉnh, thành chủ yếu là để phát triển kinh tế-xã hội chung của địa phương, qua đó đóng góp cho vùng. Thạc sĩ Trần Hữu Hiệp, Vụ trưởng Vụ Kinh tế, Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, cho biết: "Việc phân vùng kinh tế hiện nay mang tính chất tương đối, chủ yếu phục vụ yêu cầu chỉ đạo, định hướng chính sách. Đây là nguyên nhân khiến không gian kinh tế vùng bị chia cắt và thu hẹp. Nhiều cụm ngành kinh tế và các sản phẩm thế mạnh mà các địa phương có lợi thế chung không được liên kết hoặc lợi thế so sánh không được phát huy mà còn cạnh tranh cục bộ lẫn nhau, chuỗi giá trị ngành hàng bị cắt khúc. Đó là chưa kể tình trạng đầu tư trùng lắp, tính gia tăng giá trị thấp, suất đầu tư cao do không tận dụng được "lợi thế cùng chung" trên cơ sở phân công nội bộ vùng và liên vùng".

Là một trong những thế mạnh của vùng ĐBSCL, song cây ăn trái vẫn chưa có những chính sách đồng bộ để phát triển ngành hàng này.
 

Tại Hội thảo khoa học "Giải pháp khai thác tiềm năng kinh tế - xã hội các tỉnh ĐBSCL theo hướng liên kết vùng", do Trường Đại học Cần Thơ tổ chức vừa diễn ra tại TP Cần Thơ, nhiều ý kiến cho rằng, cơ cấu kinh tế của các tỉnh, thành trong vùng có đặc điểm chung là hoạch định chiến lược theo hướng tăng công nghiệp, dịch vụ, giảm nông-lâm ngư nghiệp. Nghĩa là hướng đến cơ cấu kinh tế tương tự nhau hơn là tận dụng lợi thế chung (hợp tác) và khai thác lợi thế so sánh (đặc thù) của từng địa phương… Dễ thấy nhất là tình trạng tỉnh, thành nào cũng có khu, cụm công nghiệp, chợ đầu mối hoặc có xu hướng chạy đua để xây dựng khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, trung tâm giống… Kết quả là đầu tư dàn trải, chậm phát huy hiệu quả. Nhiều ý kiến cho rằng, thực trạng hiện nay là cấp tỉnh đang chi phối và quyết định sự phát triển kinh tế vùng. Do đó, kinh tế ĐBSCL mặc dù có nhiều lợi thế về sản phẩm mũi nhọn nhưng chưa thể phát huy như mong muốn. Bên cạnh đó, ĐBSCL còn bộc lộ yếu kém trong sử dụng tài nguyên nông nghiệp theo lợi thế tiểu vùng sinh thái. Điều này được thể hiện qua việc quy hoạch và sử dụng quy hoạch sản xuất, thường được thực hiện cấp tỉnh hơn là cấp vùng. Thêm vào đó, kế hoạch đầu tư theo kiểu đơn lẻ từng Bộ, ngành; từ trên xuống một chiều và theo cơ chế "xin-cho" vẫn còn diễn ra. Cách làm đơn lẻ này dẫn đến nhiều khó khăn trong việc tập trung vùng nguyên liệu để kêu gọi đầu tư chế biến nông, thủy sản; khó tổ chức nông dân khai thác lợi thế so sánh, tạo vùng nguyên liệu và nối kết với thị trường…

Các chuyên gia nhận định, bên cạnh tổ chức quản trị vùng và cơ chế phối hợp giữa các tỉnh còn hạn chế, thì cơ chế chính sách nhằm định hướng và hỗ trợ sự phát triển các sản phẩm chủ lực của vùng chưa có sự đồng bộ. Thống kê từ Viện Nghiên cứu Phát triển ĐBSCL, thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành hơn 400 văn bản đối với ba sản phẩm chủ lực của vùng: lúa gạo, thủy sản và cây ăn quả. Trong đó, chính sách đưa ra nhiều nhất về lúa gạo chiếm 50%, thủy sản 40% và cây ăn trái chỉ chiếm 10%. "Các chính sách thể hiện tầm nhìn chiến lược, góp phần làm tăng sản lượng và xuất khẩu. Tuy nhiên, mặt hạn chế của chính sách là nặng thúc đẩy phát triển sản xuất hơn là tiếp cận thị trường; thiếu đánh giá, phản hồi dẫn đến tình trạng chồng chéo và chậm cải tiến; thiếu lồng ghép về chiến lược thích ứng với biến đổi khí hậu và thiếu liên kết công cụ chính sách. Chẳng hạn, liên kết sản xuất, tiêu thụ lúa theo mô hình "Cánh đồng lớn" chưa gắn với Nghị định 109/NĐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo, Quyết định 80/2002/QĐ-TTg về khuyến khích tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng, Quyết định 63/2010/QĐ-TTg và 65/2011/QĐ-TTg về cơ chế, chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông, thủy sản hoặc các cơ chế hỗ trợ tài chính, tín dụng để kết nối chuỗi…" - Tiến sĩ Nguyễn Văn Sánh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển ĐBSCL nhận xét.
* Tìm giải pháp thỏa đáng
Từ thực trạng trên, nhiều ý kiến cho rằng cần thống nhất, quán triệt chủ trương, xây dựng chương trình liên kết vùng, cơ chế chính sách, khung hợp tác cho vùng. Thạc sĩ Trần Hữu Hiệp cho biết: "Thủ tướng Chính phủ đã thống nhất chủ trương liên kết vùng ĐBSCL, Quy chế liên kết vùng cũng đã được dự thảo, đang lấy ý kiến đóng góp. Song, từ chủ trương đến hiện thực là cả một quá trình, đòi hỏi phải được quán triệt, chỉ đạo triển khai quyết liệt, đồng bộ với sự phối hợp chặt chẽ và hiệu quả". Theo ông Hiệp, trước hết, chương trình liên kết vùng ĐBSCL cần tập trung vào 3 sản phẩm mũi nhọn: lúa gạo, trái cây, thủy sản (tôm, cá tra); liên kết vùng trong đào tạo nghề cho nông dân để phát triển sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm trên.
Thời gian qua, nhiều chính sách của Chính phủ, chương trình, dự án trong và ngoài nước đầu tư vào vùng ĐBSCL, nhưng kết quả đạt được không như mong muốn. Vì vậy, theo Tiến sĩ Nguyễn Văn Sánh, thực hiện chủ trương tái cơ cấu nông nghiệp tại ĐBSCL cần phải giải quyết các hạn chế đối với nông dân (sản xuất nhỏ và năng lực quản lý kém), nông nghiệp (giá trị kém và tính cạnh tranh thấp) và nông thôn (lạc hậu và tổn thương cao), biến đổi khí hậu cùng với tình trạng khan hiếm đất nông nghiệp. Một số ý kiến đề nghị Chính phủ ban hành cơ chế, chính sách đặc thù thu hút đầu tư vào 3 sản phẩm chủ lực; tập trung hoàn thiện cơ cở hạ tầng kinh tế; khai thông các kênh tín dụng (vốn ngân sách, ODA, FDI, vốn doanh nghiệp, vốn tín dụng ngân hàng) và đào tạo nguồn nhân lực để phát triển các sản phẩm chủ lực này…
Ông Trương Văn Kiệm, Phó Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã TP Cần Thơ, đề xuất: "Để khắc phục nhược điểm, rào cản đưa các sản phẩm chủ lực của vùng phát triển cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp. Trong đó, liên kết trong sản xuất (nông dân-nông dân, nông dân-doanh nghiệp) với những những mô hình hợp tác xã, tổ hợp tác, câu lạc bộ, "Cánh đồng lớn"… cần được nhân rộng. Liên kết nông dân-nông dân nhằm thực hiện "hành động tập thể" và lợi ích từ "hành động tập thể" mang lại phải lớn hơn hành động riêng lẻ do từng cá nhân quyết định. Làm tốt liên kết giữa nông dân-nông dân cũng nhằm tạo ra điều kiện nội lực để thực hiện liên kết nông dân-doanh nghiệp". Ở lĩnh vực thủy sản, trước những bất cập trong hợp đồng tiêu thụ cá tra thời gian qua, các địa phương trong vùng cho rằng việc liên kết các bên trong chuỗi giá trị sản xuất, chế biến và tiêu thụ cá tra là điều cần thiết. Trong đó, cần giải quyết căn cơ từ góc độ quản lý Nhà nước đến quy trình quản lý kỹ thuật, ký kết hợp đồng và các chế tài kèm theo để phát huy được hiệu quả của việc tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng như Quyết định 80/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đã ban hành.
Thông tin từ Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, hiện Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, Trường Đại học Cần Thơ, Viện Lúa ĐBSCL, Viện Cây ăn quả Miền Nam phối hợp với các bộ, ngành liên quan và 13 tỉnh, thành vùng ĐBSCL xây dựng Chương trình Phát triển bền vững các ngành hàng nông nghiệp chủ lực ở ĐBSCL thông qua liên kết vùng, với sự tham gia của "4 nhà". Chương trình gồm 5 dự án: Phát triển sản xuất và tiêu thụ lúa gạo; phát triển sản xuất và tiêu thụ trái cây; hỗ trợ đề án cá tra và tôm qua tham gia "4 nhà"; liên kết đào tạo nghề nông thôn để thực hiện 3 dự án trên và nghề phi nông nghiệp theo yêu cầu địa phương; cơ chế, tổ chức và chính sách thực hiện các dự án nêu trên. Nếu Chương trình trên được Chính phủ thông qua, tổ chức thực hiện một cách bài bản, đúng quy trình sẽ là nền tảng khoa học và thực tiễn vững chắc để phát triển, cải thiện năng lực cạnh tranh ngành hàng chủ lực. Qua đó tăng thu nhập cho nông dân trồng lúa, trái cây, nuôi trồng thủy sản trong bối cảnh ứng phó với biến đổi khí hậu; góp phần đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và phát triển bền vững nông thôn vùng ĐBSCL...
Bài, ảnh: MỸ THANH

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

"Tính cách người Việt theo vùng miền"

Thảo luận về "Văn hoá & tính cách con người Việt theo vùng miền" trên  Trái tim Việt Nam online . Người bắc thường ăn nói nhẹ nhàng, kín đáo, thường hay suy nghĩ sâu xa. Người miền trung thì mọc mạc, chất phác lại hay có tính cục bộ. Người miền nam thì phóng khoáng cởi mở, dễ gần.Dân miền Bắc thường thể hiện mình qua lời nói, trong bất cứ tình huống nào họ cũng đều phải nói cho được. Dân miền Trung thường thể hiện mình qua thái độ, cử chỉ, còn miền Nam thì thể hiện qua phong cách. Nói chung dân Bắc-Trung-Nam đều diễn tuồng cả, cho nên lời nói lúc thì nhẹ nhàng điềm đạm, lúc lại gắt gỏng chua ngoa, thái độ có lúc thì đằm thắm, khi thì thì lại khinh bạc, phong cách thì có lúc phóng khoáng lúc lại dè dặt... Ấn tượng bên ngoài là như thế nhưng có khi bạn cũng thấy là chẳng ai tranh cãi lý luận lại người Trung, thái độ cử chỉ của dân Bắc cũng có thể khiến bạn dè chừng, và lời nói hay thái độ của dân Nam cũng khiến bạn chạy dài... Muốn kiểm chứng thì bạn cứ bỏ ra

ART NUDE PHOTOS của Dương Quốc Định

Quên những bộn bề lo toan giá vàng lên xuống, giá lúa, cá tra giảm, chuyện nhà khoa học phải nói dối ... để  ngắm ảnh các em xinh đẹp. Và nếu như kết quả nghiên cứu khoa học của một bà đầm Đức  là khoa học  (không như ta nói dối nhiều quá):  DÒM VÚ PHỤ NỮ TĂNG TUỔI THỌ     (Blog này đã từng có bài, nằm trong nhóm truy cập nhiều nhứt, có lẽ nhiều người đã luyện tập?) thì quý ông cũng nên tập thể dục con mắt một tí nhé. Xin mượn mấy tấm ảnh của nhà nhiếp ảnh Dương Quốc Định làm  dụng cụ luyện tập, ai có điều kiện thì xài hàng thật. Bộ sưu tập những bức ảnh khỏa thân và bán khỏa thân nghệ thuật của nhiếp ảnh gia trẻ Dương Quốc Định. Rất nhiều ảnh trong bộ sưu tập này đã đoạt những giải thưởng quốc tế uy tín. Cảm ơn tác giả đã chia sẻ tác phẩm trên internet. Mời bạn xem qua phần thể hiện bộ sưu tập trên PPS của chúng tôi. Link PPS:  http://vn.360plus.yahoo.com/nns-nguyennamson/article?new=1&mid=112 Chân dung Dương Quốc Định Dương Quốc Định  sinh năm 1967,

Nhớ Cần Thơ phố

Trần Hữu Hiệp B áo Dân Việt So với Thăng Long - Hà Nội ngàn năm văn hiến, cố đô Huế trầm tư hay Sài Gòn phố nhộn nhịp, thì Cần Thơ phố mang đậm đặc trưng sông nước miệt vườn. Nơi đó, hàng ngày, người Tây Đô vẫn đang sống cuộc đời bình dị. Nhớ thời học phổ thông, nhà tôi chỉ cách trung tâm Cần Thơ 20 Km, nhưng mãi đến năm 15 tuổi, lần đầu tiên mới được đến Cần Thơ cùng đội học sinh giỏi của Trường cấp III Ô Môn dự thi. Đêm, mấy thằng nhà quê lang thang, lạc đường trên phố Hòa Bình, thời đó là một  đại lộ mênh mông trong mắt nhìn bọn trẻ nhà quê chúng tôi. Ký ức Cần Thơ phố trong tôi một thời còn vang qua giọng ngâm của ai trong đêm tĩnh lặng nơi con hẻm nhỏ, bài thơ Tình trắng của Kiên Giang – Hà Huy Hà: “Cần Thơ, ơi hỡi Cần Thơ/Bóng dáng ngày xanh phủ bụi mờ/Ai nhặt giùm tôi bao kỷ niệm” … Và thơ tôi, tuổi học trò: “Ai đặt tên em tự bao giờ/Người đời hai tiếng gọi Cần Thơ/Mỗi lúc đi xa ta nhớ quá/Gặp lại hình em trong giấc mơ …”.   Nhớ Cần Thơ phố thời bao