Di sản Thế giới đã trải đều trên dải đất hình chữ S | |
Báo Đại Đoàn Kết (07/12/2013) Vào chiều 5-12, phiên họp Uỷ ban Liên Chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể lần thứ 8 của UNESCO (diễn ra tại Baku, Azerbaijan) đã ghi tên Nghệ thuật Đờn ca tài tử (ĐCTT) Nam Bộ của Việt Nam vào Danh sách Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Như vậy, tính đến thời điểm này, Di sản Thế giới tại Việt Nam đã có mặt ở khắp các vùng miền trên dải đất hình chữ S. | |
Đờn ca tài tử là loại hình sân khấu đặc sản của phương Nam
1. Cho dù là "đặc sản” của Nam Bộ, nhưng theo các nhà nghiên cứu, nhìn vào lịch sử Đờn ca tài tử (ĐCTT), người ta sẽ thấy toàn bộ lịch sử dòng chảy âm nhạc của người Việt trong quá trình Nam tiến. Bởi thế, ĐCTT Nam Bộ được vinh danh không còn là di sản mang khái niệm vùng miền nữa, mà thực sự đã là niềm tự hào của người Việt Nam.
Lại càng tự hào hơn, bởi đây là lần đầu tiên một di sản văn hóa phi vật thể của khu vực phía Nam trở thành di sản thế giới. Các chuyên gia văn hóa cho rằng: Việc ĐCTT được vinh danh đã đánh dấu một cột mốc quan trọng, khi danh hiệu Di sản Thế giới đã có mặt tại tất cả các vùng miền của đất nước. Bởi cho tới thời điểm trước ngày 5-12, khu vực Nam Bộ cũng vẫn chưa sở hữu một Di sản Văn hóa Thế giới nào. Sau khi ĐCTT được xướng tên, Việt Nam đã có tới 8 Di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO vinh danh. Và nhìn rộng ra, tính đến thời điểm này, Việt Nam cũng đã có 18 Di sản Văn hóa, thiên nhiên Thế giới. Hiện tại, bộ hồ sơ về Dân ca Ví dặm Nghệ Tĩnh cũng đã được nộp lên UNESCO và đang chờ tin vui trong năm 2014.
2. Hồ sơ ĐCTT Nam Bộ được trình UNESCO từ năm 2011, tưởng đã được vinh danh trong năm 2012, nhưng khi đó vì ưu tiên Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, nên tới bây giờ ĐCTT mới đến lượt được công nhận. Theo đánh giá của UNESCO, ĐCTT Nam Bộ được vinh danh nhờ 5 tiêu chí chủ yếu: trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và thể hiện sự hoà hợp, tôn trọng lẫn nhau giữa các dân tộc; thúc đẩy việc trao đổi giữa các cộng đồng, nghệ sĩ và các nhà nghiên cứu; có sự tham gia bảo vệ tích cực của các chuyên gia với sự hỗ trợ từ Nhà nước; được cộng đồng và chính quyền địa phương đề cử và cam kết gìn giữ. Từ năm 2010, các chuyên gia của Viện Âm nhạc đã tiến hành khảo sát, kiểm kê và lập hồ sơ về ĐCTT, dựa trên một không gian trải rộng qua 21 tỉnh thành từ cực Nam tới tỉnh Bình Thuận.
Theo các tài liệu nghiên cứu, ĐCTT ra đời ở miền Nam vào cuối thế kỷ XIX, được sáng tạo trên cơ sở nhạc lễ, nhạc cung đình, nhạc dân gian miền Trung và miền Nam. Đây là loại hình nghệ thuật được trình diễn khá phổ biến, mang tính bình dân, phù hợp với điều kiện sống, tâm tư, tình cảm của người dân miền Nam Việt Nam - vùng miệt vườn sông nước, với lối sống cần cù, phóng khoáng, cởi mở và can trường. Ban đầu, loại hình này chỉ mang hình thức hòa tấu nhạc không lời. Tuy nhiên, vào đầu thế kỉ XX, từ phần "đờn” này, các nghệ nhân Nam Bộ đã đặt thêm phần "ca” và đưa ĐCTT mau chóng phát triển tại khu vực này với tốc độ đáng kinh ngạc.
Đờn ca tài tử Nam Bộ vẫn được cộng đồng thực hành thường xuyên
Và dù "sinh sau đẻ muộn” và chỉ ra đời cách đây trên dưới 200 năm, nhưng ĐCTT lại là di sản "thăng” được tinh hoa về nghệ thuật nhạc cụ họ dây của người Việt lên tới đỉnh cao. Cũng theo các nhà nghiên cứu, trong cổ nhạc Việt Nam, ĐCTT là di sản âm nhạc có ngón đàn phức tạp nhất, phát triển đa dạng nhất và có bài bản niêm luật chặt chẽ nhất… GS Đặng Hoành Loan phân tích: Nếu nghiên cứu kĩ, phần lời của những bản ĐCTT đầu tiên ra đời vào đầu thế kỷ XX - giai đoạn Việt Nam còn là thuộc địa của Pháp - nên có nội dung gắn với những đề tài lịch sử, ca ngợi anh hùng dân tộc, cũng như tình cảm với quê hương của người dân nơi này. Và như thế, với bề dày lịch sử và một cộng đồng đông đảo và thực hành thường xuyên như vậy, việc ĐCTT được tự nguyện gìn giữ và phát triển cho tới thời điểm trở thành Di sản thế giới như hôm nay là điều hoàn toàn dễ hiểu.
3. Việc ĐCTT Nam Bộ được vinh danh cho thấy thế giới đánh giá cao loại hình âm nhạc này của Việt Nam, đồng thời chứng tỏ sức sống của văn hoá truyền thống Việt Nam trong dòng chảy hội nhập vào văn hoá thế giới. Sau lễ vinh danh, UNESCO hy vọng Việt Nam sẽ có các biện pháp bảo vệ nhằm hỗ trợ trao truyền và giảng dạy về Di sản Văn hóa phi vật thể này trong chương trình giáo dục chính thức.
Nhóm PV Văn hóa (thực hiện)
|
Thảo luận về "Văn hoá & tính cách con người Việt theo vùng miền" trên Trái tim Việt Nam online . Người bắc thường ăn nói nhẹ nhàng, kín đáo, thường hay suy nghĩ sâu xa. Người miền trung thì mọc mạc, chất phác lại hay có tính cục bộ. Người miền nam thì phóng khoáng cởi mở, dễ gần.Dân miền Bắc thường thể hiện mình qua lời nói, trong bất cứ tình huống nào họ cũng đều phải nói cho được. Dân miền Trung thường thể hiện mình qua thái độ, cử chỉ, còn miền Nam thì thể hiện qua phong cách. Nói chung dân Bắc-Trung-Nam đều diễn tuồng cả, cho nên lời nói lúc thì nhẹ nhàng điềm đạm, lúc lại gắt gỏng chua ngoa, thái độ có lúc thì đằm thắm, khi thì thì lại khinh bạc, phong cách thì có lúc phóng khoáng lúc lại dè dặt... Ấn tượng bên ngoài là như thế nhưng có khi bạn cũng thấy là chẳng ai tranh cãi lý luận lại người Trung, thái độ cử chỉ của dân Bắc cũng có thể khiến bạn dè chừng, và lời nói hay thái độ của dân Nam cũng khiến bạn chạy dài... Muốn kiểm chứng thì bạn cứ bỏ ra ...
Nhận xét
Đăng nhận xét