Báo Bạc Liêu, Thứ Hai, 17/02/2020 | 17:11
Khi thực hiện chuyên đề “Ứng phó với hạn hán, xâm nhập mặn”, báo Bạc Liêu đã nhận được nhiều ý kiến từ các chuyên gia, nhà khoa học hiến kế và đề xuất các giải pháp để ứng phó. Đồng thời, chỉ ra những mô hình, bài học kinh nghiệm cần nhân rộng.
* Tiến sĩ Trần Hữu Hiệp, chuyên gia kinh tế vùng ĐBSCL: Cần thay đổi tư duy phát triển
Từ xa xưa, các bậc tiền hiền khai phá vùng châu thổ Cửu Long đã phải chống chọi với điều kiện khắc nghiệt của vùng đất mới. Lịch sử hàng trăm năm qua cho thấy, người dân nơi đây đã biết chủ động thích ứng thuận thiên, hợp địa, tôn trọng quy luật tự nhiên theo điều kiện thực tế. Cụ thể, người dân ven biển đã biết dùng lu, khạp để trữ nước ngọt mùa mưa dùng cho mùa khô. Thực tế, trong một số tiểu vùng bị hạn mặn nghiêm trọng vẫn có nhiều nông dân "né hạn" nhờ chủ động lịch thời vụ, sử dụng giống ngắn ngày, có những rẫy màu chủ động tưới bằng nước ngầm, tránh được thiệt hại. Tư duy thích ứng đó cần được nâng lên thành định hướng "3 chuyển dịch": chuyển lịch thời vụ "né hạn, mặn", sử dụng giống thích ứng hạn, mặn và mạnh dạn chuyển đổi cây trồng, vật nuôi hiệu quả kinh tế hơn cây lúa, kèm theo là các giải pháp kỹ thuật, tín dụng, gắn với thị trường tiêu thụ nông sản để đảm bảo sự chuyển đổi thành công, không duy ý chí và hành chính hóa sản xuất.
ĐBSCL đã xuất hiện nhiều mô hình tốt như lúa - tôm ở Bạc Liêu, Sóc Trăng; mô hình nuôi tôm sạch dưới tán rừng ở Cà Mau; cây dừa thích ứng BĐKH ở Bến Tre và các mô hình sinh kế thích ứng trên đất giồng ven biển ở Trà Vinh… Các mô hình này cần được tiếp tục nghiên cứu để nhân rộng trong phạm vi từng tiểu vùng thích hợp, trên cơ sở tôn trọng giá trị nhân văn, kiến thức bản địa kết hợp với tri thức công nghệ hiện đại và tư duy hệ thống chứ không phải bằng kinh nghiệm đơn thuần.
Để nâng tầm thích ứng của người dân trước thách thức mới của BĐKH, ngành quản lý, nông dân cần thay đổi tư duy phát triển, chuyển từ sản xuất nông nghiệp thuần túy sang kinh tế nông nghiệp đa dạng, từ nặng về số lượng sang chất lượng và giá trị. Cần tiếp cận tổng thể, tích hợp chứ không thể chỉ đạo phát triển lẻ mẻ từng mô hình rồi nhân rộng một cách cứng nhắc. Cần lấy tài nguyên đất và nước được ví như đôi chân phát triển đồng bằng làm yếu tố cốt lõi. Khai thác thổ nhưỡng phải gắn với từng tiểu vùng sinh thái.
Bên cạnh nước ngọt, cần xem nước mặn, lợ cũng là tài nguyên phát triển kinh tế biển, ven biển. Tránh ngăn mặn bằng cách can thiệp thô bạo như đã làm. Thích nghi với hạn mặn, phát triển kinh tế ven biển, kinh tế biển xanh phù hợp chính là bước chuyển dịch căn bản để vùng đất phù sa vượt qua khỏi cái bóng của nông nghiệp lúa nước truyền thống từ ngàn đời, hướng đến mục tiêu an toàn, thịnh vượng trong tương lai.
* Tiến sĩ Nguyễn Xuân Khoa, Phó Chủ tịch Liên hiệp các hội KH-KT Bạc Liêu: Xây dựng nền nông nghiệp thông minh
Để ứng phó và thích ứng với hạn hán, xâm nhập mặn trong điều kiện BĐKH cần xây dựng nền nông nghiệp thông minh (NNTM).
Hiện nay, đã có một số mô hình tiêu biểu về NNTM đang được ứng dụng thân thiện với môi trường. Trước hết là mô hình canh tác lúa ít phát thải khí nhà kính “1 phải - 6 giảm”, được thực hiện từ năm 2010 tại một số tỉnh ĐBSCL, đã nâng cao chất lượng lúa gạo, tăng giá trị, tiết kiệm nguồn nước và phát triển bền vững. Theo đó, “1 phải” là phải sử dụng hạt giống chất lượng cao được cơ quan có thẩm quyền chứng nhận (còn gọi là lúa giống cấp xác nhận), có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. “6 giảm” là giảm lượng hạt giống, phân đạm, thuốc bảo vệ thực vật, nước tưới, giảm thất thoát sau thu hoạch và giảm phát thải khí nhà kính.
Khi sử dụng hạt giống đạt chuẩn chất lượng, nông dân có thể giảm lượng giống từ 50 - 80% khối lượng so với nguồn giống chất lượng kém mà năng suất lúa không giảm. Để giảm lượng phân đạm nên sử dụng bảng so màu lá lúa kiểm tra định kỳ và xác định “chuẩn màu của giống lúa” để đánh giá đúng nhu cầu sử dụng đạm; cách bón phân cũng phải theo nhu cầu của cây trong từng giai đoạn sinh trưởng và phát triển. Đồng thời, cần tận dụng tính đa dạng của thiên địch trong tự nhiên để khống chế dịch hại với cây trồng nhằm hạn chế sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, chỉ sử dụng các loại thuốc này khi cần thiết và phải theo nguyên tắc “4 đúng”.
Đặc biệt, trong điều kiện thiếu nguồn nước ngọt do ảnh hưởng hạn hán, xâm nhập mặn, việc áp dụng mô hình này lượng nước tưới sẽ được tính toán dựa vào nhu cầu của cây trồng trong từng thời kỳ phát triển để vừa tiết kiệm nước, vừa đảm bảo sinh trưởng của cây. Mô hình “1 phải - 6 giảm” giúp người nông dân tiết kiệm được 50% giống, 30 - 40% phân hóa học, 30% thuốc bảo vệ thực vật và 20% công lao động; tăng 10% năng suất và 10% lợi nhuận ròng; giảm 20 - 30% lượng phát thải khí nhà kính so với phương pháp canh tác truyền thống. Mô hình hiện đã được lồng ghép vào các chương trình nông nghiệp và phát triển nông thôn của Việt Nam như Cánh đồng mẫu lớn…
Tuy vậy, muốn mở rộng các mô hình sản xuất NNTM cần áp dụng đồng bộ nhiều giải pháp. Đó là nâng cao nhận thức cho các tầng lớp xã hội từ các nhà quản lý, cộng đồng doanh nghiệp và người dân về vai trò của phát triển sản xuất NNTM, cũng như định hướng tiêu dùng các sản phẩm NNTM trong điều kiện phải đương đầu với quá trình cực đoan do BĐKH gây ra, nhất là hạn hán, xâm nhập mặn. Đưa chính sách phát triển NNTM lồng ghép vào các chính sách và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từ cấp quốc gia đến cấp địa phương, ngành. Cụ thể là chính sách quản lý đất đai bền vững vào quy hoạch phát triển nông nghiệp, an ninh lương thực, an sinh xã hội, giảm nghèo vào chính sách BĐKH…
K.T (lược ghi)
http://www.baobaclieu.vn/nong-nghiep-nong-dan-nong-thon/lam-gi-de-thich-ung-63492.html?utm_source=zalo&utm_medium=zalo&utm_campaign=zalo&zarsrc=30
- Nhận đường liên kết
- X
- Ứng dụng khác
Nhãn
Báo chí- Nhận đường liên kết
- X
- Ứng dụng khác
Nhận xét
Đăng nhận xét