Chuyển đến nội dung chính

SỞ HỮU ĐẤT ĐAI - CẦN SỰ CHÍNH DANH


                                                                                 Trần Hữu Hiệp
Những cánh đồng xanh trên mảnh đất đang cần chính danh "chủ đất"
Sở hữu tư nhân về đất đai rất cần sự "chính danh”, nó không chỉ làm phong phú thêm "chế độ sở hữu toàn dân” về đất đai mà còn giúp từng thửa đất, ngôi nhà, mảnh vườn, miếng ruộng của người dân, cơ quan, doanh nghiệp có chủ thực sự. Thừa nhận hình thức sở hữu tư nhân về đất đai trong lần sửa đổi Hiến pháp, Luật Đất đai sắp tới là nhu cầu bức thiết.
Khi "chiếc áo” pháp lý quá chật
Câu chuyện về người nông dân ở Long An hàng chục năm trời tích tụ để có được gần 500 ha đất canh tác, đáp ứng nhu cầu sản xuất lớn nhưng phải đối phó bằng cách nhờ người khác "đứng tên”; hàng loạt khiếu kiện đất đai kéo dài trở thành điểm nóng, chiếm đến 70% các vụ khiếu kiện hiện nay khó giải quyết dứt điểm; hệ quả của các quyết định thu hồi đất, giải phóng mặt bằng ở nhiều nơi; những sai phạm liên quan cưỡng chế đất đai ở xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng, TP. Hải Phòng... đã là những chỉ dấu về "chiếc áo pháp lý” – Luật Đất đai - không còn phù hợp với thực tiễn cuộc sống, đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung, qui định mới. Đặc biệt, trước yêu cầu tổng kết thi hành và sửa đổi Hiến pháp năm 1992, nó vừa bức xúc, vừa là cơ hội lịch sử để thay đổi căn bản Luật Đất đai so với các lần sửa đổi năm 1993, 1998, 2001, 2003 và năm 2009 vừa qua.
Nhưng sửa cái gì? Đâu là vấn đề cốt lõi, mấu chốt? Từ thực tiễn và góc độ nghiên cứu tại vùng ĐBSCL, tôi thấy có 2 vấn đề quan trọng nhất cần được xem xét, vừa đáp ứng yêu cầu phát triển mà không làm phát sinh những tầng lớp "địa chủ mới”, thao túng đất đai. Nó không chỉ là vấn đề hạn điền, thời hạn giao đất hay chế độ quản lý nhà nước về đất đai vốn có nhiều bất cập mà quan trọng hơn, chính là việc cần nhận thức lại để cụ thể hóa "chế độ sở hữu toàn dân về đất đai” và sự "chính danh” cho hình thức sở hữu tư nhân về đất đai mà trong thực tế nó vẫn đang tồn tại dưới dạng này hay dạng khác, nhưng chưa được thừa nhận.

Chưa đồng bộ từ Hiến pháp, Luật Đất đai đến văn bản hướng dẫn thi hành
Về lý luận, chế độ sở hữu là tổng hợp các quan hệ sở hữu tồn tại trong xã hội, còn hình thức sở hữu là sự biểu hiện của các quan hệ đó dưới những dạng khác nhau như sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Vì vậy, "chế độ sở hữu toàn dân về đất đai” được qui định từ Hiến pháp năm 1980 trở đi là hoàn toàn đúng, nó thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ, xã hội ta, nên không cần thay đổi mà chỉ cần hiểu đúng để cụ thể hóa. Chúng ta khẳng định "Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân”. Đất đai cũng cần được xác lập chế độ sở hữu toàn dân.
Tuy nhiên, nếu hiểu "sở hữu toàn dân về đất đai” là một "hình thức sở hữu” duy nhất ở Việt Nam như thời gian qua, thì từ Hiến pháp năm 1980, Nhà nước đã "tước đoạt” về mặt pháp lý (một cách đơn giản và dễ dàng) toàn bộ sở hữu tư nhân về đất đai ở Việt Nam trước đó. Bởi "đất đai” và "mảnh đất” thuộc hai phạm trù khác nhau. Cho nên, quá trình quốc hữu hoá các "mảnh đất” và "thửa đất” cụ thể đã không xảy ra. Nhà nước vẫn thừa nhận một thực tế khách quan là ai ở đâu (trên mảnh đất nào) thì vẫn ở đó. Có nghĩa là về mặt pháp lý, Nhà nước chỉ can thiệp vào hai khía cạnh của quyền sở hữu đất đai, đó là quyền sử dụng và quyền định đoạt (chứ không tước đoạt hay giành lấy các quyền này). Song, từ cách diễn đạt trong Hiến pháp (đất đai của Nhà nước, Nhà nước giao lại cho tổ chức, cá nhân...), đến Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành, về mặt pháp lý không thừa nhận sở hữu tư nhân về đất đai và các hình thức sở hữu khác.
Khi nói "chế độ sở hữu toàn dân về đất đai” là đề cập đến một hệ thống quy chế chung trong quan hệ đất đai mà toàn dân là chủ thể. Nhưng "toàn dân” là một khái niệm trừu tượng, nên "toàn dân” không thể đứng ra thực hiện các quyền năng cụ thể (chiếm hữu, sử dụng, định đoạt) của chủ sở hữu, mà phải cử người đại diện, nhân danh mình để làm việc đó. Các nhà lý luận đã cho rằng, Nhà nước là đủ tư cách làm đại diện. Song, người đại diện không phải là chủ thật sự. Nên không thể thay thế "sở hữu toàn dân” bằng "sở hữu nhà nước” hay "sở hữu quốc gia” về đất đai như một vài ý kiến đã nêu. Điều đó chẳng khác nào tiếp tục lấy "cái trừu tượng này” để thay cho "cái trừu tượng khác”. Vấn đề quan trọng là cần phân biệt giữa 2 khái niệm "đất đai” (trừu tượng – thuộc về chế độ sở hữu) và "thửa đất, miếng đất” (cụ thể-thuộc về một hình thức sở hữu). Vì vậy, cần có các hình thức sở hữu đất đai khác (với nghĩa cụ thể) để làm phong phú thêm "chế độ sở hữu” này. Bản thân "chế độ sở hữu toàn dân về đất đai” không có lỗi. Song do nhận thức và diễn đạt trong Hiến pháp và cụ thể hóa trong Luật Đất đai như là một hình thức sở hữu duy nhất, nên không có bất kỳ hình thức sở hữu tập thể, tư nhân... về đất đai nào khác. Việc chỉ có một hình thức sở hữu duy nhất với tên gọi là "sở hữu toàn dân” đã trực tiếp hoặc gián tiếp cản trở sự phát triển của nền kinh tế và quá trình làm giàu của người dân thông qua việc hạn chế người dân biến các mảnh đất, thửa đất của mình thành tài sản và hoặc vốn đầu tư. Thực tế đã xuất hiện nhiều trường hợp "lách luật” từ việc sử dụng, kinh doanh đến quản lý nhà nước về đất đai nhằm mục đích tiêu cực lẫn tích cực kiểu như nhờ người đứng tên chủ sử dụng đất, pháp luật qui định việc "giao đất ở ổn định, lâu dài” mà không thể xác định được bao lâu... cần được xóa bỏ. Đặc biệt, thực tiễn cho thấy, đã có sự lạm quyền, lạm dụng của các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai trong việc qui hoạch (để nâng giá đất, hưởng lợi), quyết định thu hồi đất của người dân để giao lại cho các tổ chức, cá nhân kinh doanh kiếm lời trong các dự án khu dân cư, thương mai ... Hậu quả của quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá thời gian qua là sự mất và giảm nghiêm trọng đất trồng lúa và biến hàng triệu nông dân thành tay trắng về phương diện tư liệu sản xuất. Sự lạm dụng đó có nguyên nhân từ một cơ chế tâm lý và pháp lý đặc thù hình thành từ việc nhận thức chưa đúng về chế độ sở hữu toàn dân về đất đai.

"May” chiếc áo pháp lý nào?
Để cụ thể hóa chế độ sở hữu này, nhất thiết phải "đa dạng hóa” các hình thức sở hữu: sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân... như Điều 172 Bộ luật Dân sự. Hình thức sở hữu nhà nước nhất thiết phải được xác lập đối với đất đai chưa được khai thác, thềm lục địa, đất quốc phòng, phục vụ lợi ích công cộng..., nhưng cũng rất cần xác lập các hình thức sở hữu tư nhân về đất đai phục vụ sản xuất, kinh doanh. Nó hoàn toàn phù hợp với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định "nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu” để đáp ứng nhu cầu tích tụ ruộng đất, để tăng qui mô sản xuất, ngăn chặn thao túng đất đai (đầu cơ, làm giá) do vẫn giữ nguyên chế độ "sở hữu toàn dân về đất đai”, nâng cao chất lượng qui hoạch và giữ nghiêm kỷ cương qui hoạch đất đai. Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai được thể hiện bằng nhiều hình thức sở hữu đất đai sinh động (Nhà nước, tập thể, tư nhân, hỗn hợp), cũng không mâu thuẫn về mặt lý luận (đất đai – tư liệu sản xuất chủ yếu vẫn thuộc sở hữu toàn dân, còn "mảnh đất” cụ thể thuộc nhiều hình thức sở hữu đa dạng).
Đổi mới chính sách đất đai chính là một trong những nhân tố quan trọng nhất có thể tạo cơ hội cho người dân và doanh nghiệp phát huy được lợi thế nguồn tài nguyên có giới hạn này. Cách đây 2 năm, nhóm nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương phối hợp với Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ đã trình Thủ tướng Chính phủ "Đề án đặc thù thu hút đầu tư vào vùng đồng bằng sông Cửu Long” với gói giải pháp thí điểm: 1-Xóa bỏ chế độ hạn điền, cho phép tích tụ đất để có thể sản xuất nông nghiệp, thủy sản với quy mô lớn và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho quá trình hiện đại hóa trong lĩnh vực nông nghiệp, thủy sản. 2-Kéo dài thời gian thuê đất sản xuất nông nghiệp, tạo sự yên tâm cho các nhà đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp, thủy sản, nhất là khi họ đưa công nghệ mới vào sản xuất ở những lĩnh vực này. Thành công bước đầu của mô hình "Cánh đồng mẫu lớn”, "Công ty cổ phần nông nghiệp” để nông dân góp vốn bằng quyền sử dụng đất ở nhiều tỉnh, thành vùng ĐBSCL cũng cho thấy việc "sáng tạo” của doanh nghiệp và nông dân trong điều kiện vẫn tồn tại chế độ "hạn điền”, "tích tụ ruộng đất” và hình thức sở hữu tư nhân, sở hữu doanh nghiệp về đất nông nghiệp chưa được công nhận.
Sở hữu tư nhân về đất đai rất cần sự "chính danh”, nó không chỉ làm phong phú thêm "chế độ sở hữu toàn dân” về đất đai mà còn giúp từng thửa đất, ngôi nhà, mảnh vườn, miếng ruộng của người dân, cơ quan, doanh nghiệp có chủ thực sự. Thừa nhận hình thức sở hữu tư nhân về đất đai trong lần sửa đổi Hiến pháp, Luật Đất đai sắp tới là nhu cầu bức thiết.
Điều 172 Bộ luật Dân sự: "Trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, các hình thức sở hữu bao gồm sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu chung, sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, sở hữu của tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp”.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

"Tính cách người Việt theo vùng miền"

Thảo luận về "Văn hoá & tính cách con người Việt theo vùng miền" trên  Trái tim Việt Nam online . Người bắc thường ăn nói nhẹ nhàng, kín đáo, thường hay suy nghĩ sâu xa. Người miền trung thì mọc mạc, chất phác lại hay có tính cục bộ. Người miền nam thì phóng khoáng cởi mở, dễ gần.Dân miền Bắc thường thể hiện mình qua lời nói, trong bất cứ tình huống nào họ cũng đều phải nói cho được. Dân miền Trung thường thể hiện mình qua thái độ, cử chỉ, còn miền Nam thì thể hiện qua phong cách. Nói chung dân Bắc-Trung-Nam đều diễn tuồng cả, cho nên lời nói lúc thì nhẹ nhàng điềm đạm, lúc lại gắt gỏng chua ngoa, thái độ có lúc thì đằm thắm, khi thì thì lại khinh bạc, phong cách thì có lúc phóng khoáng lúc lại dè dặt... Ấn tượng bên ngoài là như thế nhưng có khi bạn cũng thấy là chẳng ai tranh cãi lý luận lại người Trung, thái độ cử chỉ của dân Bắc cũng có thể khiến bạn dè chừng, và lời nói hay thái độ của dân Nam cũng khiến bạn chạy dài... Muốn kiểm chứng thì bạn cứ bỏ ra ...

ART NUDE PHOTOS của Dương Quốc Định

Quên những bộn bề lo toan giá vàng lên xuống, giá lúa, cá tra giảm, chuyện nhà khoa học phải nói dối ... để  ngắm ảnh các em xinh đẹp. Và nếu như kết quả nghiên cứu khoa học của một bà đầm Đức  là khoa học  (không như ta nói dối nhiều quá):  DÒM VÚ PHỤ NỮ TĂNG TUỔI THỌ     (Blog này đã từng có bài, nằm trong nhóm truy cập nhiều nhứt, có lẽ nhiều người đã luyện tập?) thì quý ông cũng nên tập thể dục con mắt một tí nhé. Xin mượn mấy tấm ảnh của nhà nhiếp ảnh Dương Quốc Định làm  dụng cụ luyện tập, ai có điều kiện thì xài hàng thật. Bộ sưu tập những bức ảnh khỏa thân và bán khỏa thân nghệ thuật của nhiếp ảnh gia trẻ Dương Quốc Định. Rất nhiều ảnh trong bộ sưu tập này đã đoạt những giải thưởng quốc tế uy tín. Cảm ơn tác giả đã chia sẻ tác phẩm trên internet. Mời bạn xem qua phần thể hiện bộ sưu tập trên PPS của chúng tôi. Link PPS:  http://vn.360plus.yahoo.com/nns-nguyennamson/article?new=1&mid=112 Chân dung Dương Quốc Địn...

Nhớ Cần Thơ phố

Trần Hữu Hiệp B áo Dân Việt So với Thăng Long - Hà Nội ngàn năm văn hiến, cố đô Huế trầm tư hay Sài Gòn phố nhộn nhịp, thì Cần Thơ phố mang đậm đặc trưng sông nước miệt vườn. Nơi đó, hàng ngày, người Tây Đô vẫn đang sống cuộc đời bình dị. Nhớ thời học phổ thông, nhà tôi chỉ cách trung tâm Cần Thơ 20 Km, nhưng mãi đến năm 15 tuổi, lần đầu tiên mới được đến Cần Thơ cùng đội học sinh giỏi của Trường cấp III Ô Môn dự thi. Đêm, mấy thằng nhà quê lang thang, lạc đường trên phố Hòa Bình, thời đó là một  đại lộ mênh mông trong mắt nhìn bọn trẻ nhà quê chúng tôi. Ký ức Cần Thơ phố trong tôi một thời còn vang qua giọng ngâm của ai trong đêm tĩnh lặng nơi con hẻm nhỏ, bài thơ Tình trắng của Kiên Giang – Hà Huy Hà: “Cần Thơ, ơi hỡi Cần Thơ/Bóng dáng ngày xanh phủ bụi mờ/Ai nhặt giùm tôi bao kỷ niệm” … Và thơ tôi, tuổi học trò: “Ai đặt tên em tự bao giờ/Người đời hai tiếng gọi Cần Thơ/Mỗi lúc đi xa ta nhớ quá/Gặp lại hình em tron...