Thứ tự kế nhiệm tổng thống
Hiến pháp Hoa Kỳ có nói rằng phó tổng thống sẽ trở thành tổng thống nếu như tổng thống đương nhiệm bị truất phế, qua đời hay từ chức. Nếu như cả hai văn phòng tổng thống và phó tổng thống đều bị bỏ trống hay có người bị thương tật tàn phế thì viên chức kế tiếp trong thứ tự kế nhiệm tổng thống sẽ là Chủ tịch Hạ viện Hoa Kỳ. Thứ tự kế nhiệm sau đó được mở rộng xuống đến Chủ tịch Thượng viện Tạm quyền, rồi đến các thành viên nội các với một thứ tự đã được định trước.
Dưới đây là danh sách thứ tự kế nhiệm tổng thống hiện thời,[14] như đã được ghi rỏ chi tiết trong Hiến pháp Hoa Kỳ và Đạo luật Kế nhiệm Tổng thống năm 1947 (Bản mẫu:USCode) và các tu chính án sau này để thêm vào các bộ trưởng mới được thành lập.
Văn phòng Viên chức hiện tại
Bổng lộc
Lịch sử lương tổng thốngNgày lậpLươngLương tính theo giá trị đô la Mỹ năm 2009
dollars
24 tháng 9, 1789 $25.000 $566.000
3 tháng 3, 1873 $50.000 $865.000
4 tháng 3, 1909 $75.000 $1.714.000
19 tháng 1, 1949 $100.000 $906.000
20 tháng 1, 1969 $200.000 $1.175.000
20 tháng 1, 2001 $400.000 $487.000
Tổng thống Hoa Kỳ nhận được tiền lương là $400.000/năm cùng với 1 tài khoản chi tiêu $50.000/năm, một tài khoản $100.000 không tính thuế dành cho du hành và $19.000 cho giải trí.[19][20] Việc tăng lương tổng thống gần đây nhất đã được Quốc hội Hoa Kỳ và Tổng thốngBill Clinton chấp thuận vào năm 1999 và có hiệu lực vào năm 2001.
Tòa Bạch Ốc ở Washington, D.C. phục vụ trong vai trò là nơi cư ngụ dành cho tổng thống; ông được quyền sử dụng toàn bộ nhân viên và cơ sở của tòa nhà này trong đó gồm có các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, giải trí, giúp việc nhà, và an ninh. Cơ sở Hỗ trợ Hải quân Thurmont, nổi tiếng với biệt danh Trại David, là một trại quân sự nằm trên núi trongQuận Frederick, Marylandđược dùng làm nơi nghĩ ngơi miền quê cũng như được dùng để bảo vệ tổng thống và khách mời của ông khi có mức báo động cao. Blair House, nằm gần Tòa Cựu Văn phòng Hành chínhở Khu phức hợp Tòa Bạch Ốc và Công viên Lafayette, là một tòa nhà phức hợp gồm có bốn ngôi nhà phố dính liền nhau có tổng diện tích sàn rộng hơn 70.000 foot vuông (6.500 m2) và phục vụ trong vai trò của một nhà khách chính thức của tổng thống và nó cũng là nơi cư ngụ thứ hai của tổng thống khi cần thiết.[21]
Để du hành bằng đường bộ, tổng thống sử dụng công xa tổng thống, đây là một chiếc xelimousine bộc thép được chế tạo với sườn xe Cadillac được cải tiến rất nhiều.[22] Một trong hai phi cơ Boeing VC-25 giống nhau, phiên bản cải tiến rất nhiều từ loại phi cơ chở khách Boeing 747-200B, phục vụ tổng thống trên những đoạn đường du hành dài. Chúng được gọi tên là Air Force One khi tổng thống có mặt trên phi cơ.[23][24]Tổng thống cũng dùng một chiếc trực thăng của Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ, được gọi tên là Marine One khi tổng thống lên chiếc phi cơ trực thăng này.
Sở Mật vụ Hoa Kỳ có nhiệm vụ bảo vệ tổng thống đương nhiệm và gia đình của ông. Như một phần của công việc bảo vệ họ, tổng thống, đệ nhất phu nhân, con cái và thân nhân gần khác của họ, các yếu nhân khác hay những địa điểm khác đều có mật danh do Sở Mật vụ Hoa Kỳ đặt.[25] Lúc đầu việc sử dụng những mật danh như thế là vì mục đích an ninh và có lịch sử trở về thời kỳ mà việc liên lạc điện tử có yếu tố nhạy cảm chưa được mã hóa; ngày nay, các mật danh này chỉ phục vụ vì mục đích ngắn ngọn, rõ ràng và theo truyền thống.[26][27]
Tiện nghi của tổng thống
Bắt đầu vào năm 1959, tất cả các cựu tổng thống còn sống được nhận tiền hưu bổng, một văn phòng làm việc và một ban nhân sự. Tiền hưu bổng đã được tăng nhiều lần với sự chấp thuận của Quốc hội. Các tổng thống về hưu hiện nay nhận được tiền hưu bổng theo tiền lương của các bộ trưởng nội các của chính phủ đương nhiệm là $191.300 tính đến năm 2008.[28] Một số cựu tổng thống cũng nhận được tiền hưu bổng quốc hội.[29] Đạo luật Cựu Tổng thống, như đã được tu chính, cũng cung cấp cho các cựu tổng thống quỹ du hành và những đặc quyền ưu tiên.
Tính đến năm 1997, tất cả các cựu tổng thống và gia đình của họ đều được Sở Mật vụ Hoa Kỳ bảo vệ cho đến khi tổng thống qua đời. Cựu tổng thống cuối cùng được Sở Mật vụ Hoa Kỳ bảo vệ trọn đời là Bill Clinton. Các cựu tổng thống về sau này như George W. Bush và các cựu tổng thống tương lại sẽ được Sở Mật vụ Hoa Kỳ bảo vệ tối đa là 10 năm sau khi rời nhiệm sở.[30]
Một số tổng thống có nghiệp vụ nổi bật sau khi rời nhiệm sở. Thí dụ nổi bật gồm có William Howard Taft trở thành Thẩm phán trưởng Hoa Kỳ và Herbert Hoover làm việc trong chương trình tái tổ chức chính phủ sau Đệ nhị Thế chiến. Grover Cleveland thất bại trong cuộc tái ứng cử chức vụ tổng thống vào năm 1888 nhưng lại đắc cử tổng thống 4 năm sau đó vào năm 1892. Hai cựu tổng thống phục vụ tại Quốc hội Hoa Kỳ sau khi rời Tòa Bạch Ốc: John Quincy Adams được bầu vào Hạ viện Hoa Kỳ, phục vụ ở đó 17 năm và Andrew Johnson trở lại Thượng viện Hoa Kỳ năm 1875. John Tylerphục vụ trong Quốc hội tạm thời của Liên minh miền Nam Hoa Kỳ trong thời Nội chiến Hoa Kỳ và được bầu vào Hạ viện Liên minh miền Nam nhưng qua đời trước khi hạ viên này nhóm họp. Gần đây hơn, Richard Nixon đã thực hiện rất nhiều chuyến du hành ngoại quốc đến các quốc gia như Trung Quốc, Nga và được ca ngợi như một chính khách lão thành.[31] Jimmy Carter trở thành người vận động cho nhân quyền trên toàn cầu, giám sát bầu cử và phân giải quốc tế và là người nhận Giải Nobel Hòa bình. Bill Clinton đã làm một số công việc như một chính khách lão thành, nổi bật nhất là việc ông thực hiện các cuộc điều đình dẫn đến việc Bắc Hàn thả hai nhà báo Mỹ là Laura Ling và Euna Lee. Bill Clinton cũng tích cực hoạt động chính trị từ khi rời nhiệm sở. Ông đã làm việc cùng với phu nhân của mình là Hillary Clinton trong chiến dịch tranh cử tổng thống của bà.
Hiện thời có bốn cựu tổng thống còn sống:
phục vụ từ năm 1977–1981
George H. W. Bush (R),
phục vụ từ năm 1989–1993
Bill Clinton (D),
phục vụ từ năm 1993–2001
George W. Bush (R),
phục vụ từ năm 2001–2009
Thư viện tổng thống
Bài chi tiết: Thư viện tổng thống
Mỗi tổng thống kể từ Herbert Hoover đã xây dựng một kho sách được biết với tên gọi là thư viện tổng thống để lưu giữ và giúp bạn đọc có thể tìm đọc các bài viết, tài liệu và những văn kiện khác của tổng thống. Các thư viện này khi hoàn thành sẽ được làm chứng thư giao choCơ quan Quản trị Văn khố và Hồ sơ Quốc gia Hoa Kỳ bảo trì; ngân quỹ ban đầu để xây dựng và trang bị mỗi thư viện phải là ngân quỹ tư nhân, không phải ngân quỹ liên bang. Hiện thời có tất cả 13 thư viện tổng thống trong hệ thống của Cơ quan Quản trị Văn khố và Hồ sơ. Cũng có một số thư viện tổng thống được chính quyền tiểu bang và quỹ tư nhân bảo trì, thí dụ như Bảo tàng và Thư viện Tổng thống Abraham Lincoln được điều hành bởi tiểu bang Illinois.
Chỉ trích
Những chỉ trích đối với tổng thống thường rơi vào một trong các mục sau đây:Tổng thống quá quyền lực Đa số những người lập quốc Hoa Kỳ kỳ vọng rằng Quốc hội Hoa Kỳ, được nói đến trước tiên trong Hiến pháp Hoa Kỳ, sẽ là ngành có nhiều ảnh hưởng chi phối chính phủ. Họ không muốn hay kỳ vọng đến một ngành hành pháp mạnh mẽ.[32] Tuy nhiên, vô số những người chỉ trích ngày nay cho rằng tổng thống quá nhiều quyền lực,[33][34] không bị kiểm soát và cân bằng quyền lực[35] và bản chất giống như “đế vương”.[36] Người chỉ trích là Dana D. Nelson tin rằng các vị tổng thống suốt hơn 30 năm qua đã tìm cách tiến tới việc nắm trọn, không phân chia quyền lực tổng thống đối với ngành hành pháp và các cơ quan của ngành.”[37] Bà chỉ trích những người ủng hộ hành pháp đơn nhất vì điều đó khiến mở rộng “nhiều quyền lực hành pháp không bị kiểm soát vốn đã tồn tại – thí dụ như những lệnh hành pháp, sắc lệnh, tuyên cáo, giác thư, chỉ thị an ninh quốc gia – đã cho phép tổng thống hành xử rất nhiều chính sách đối nội và đối ngoại mà không cần sự trợ giúp, can thiệp hoặc ưng thuận từ Quốc hội.”[37] Những học giả về hiến pháp đã chỉ quyền lực quá mức của tổng thống[38] và cho rằng tổng thống giống như “những nhà độc tài lập hiến” có “động cơ để tuyên bố tình trạng khẩn cấp” nhằm nắm lấy quyền lực “gần giống như độc tài.”[39] David Sirota nhận thấy có một mô hình “với mục tiêu cung cấp một cơ sở hợp pháp cho quyền lực tối cao toàn phần của Tòa Bạch Ốc đối với toàn chính phủ.”[40][41] Một người chỉ trích khác viết rằng quyền lực tổng thống mở rộng là “mối đe dọa lớn nhất chưa từng thấy đối với sự tự do cá nhân và luật pháp dân chủ.”[42]Hình ảnh và quan hệ công chúng Một số người cho rằng hình ảnh của tổng thống có chiều hướng bị các viên chức hành pháp đặc trách quan hệ công chúng và chính tổng thống ngụy tạo lên. Một người chỉ trích diễn tả tổng thống giống như “giới lãnh đạo bị tuyên truyền” mà có một “quyền lực mê hoặc quanh chức vị này”;[43] một người chỉ trích khác diễn tả hiện tượng quanh chức vị tổng thống bằng từ “cult”, có nghĩa là sự sùng bái[41] Những quan chức điều hành về quan hệ công chúng của chính phủ đã giàn cảnh một cách mưu mẹo những dịp ghi hình có tổng thống đang tươi cười với đám đông cũng đang tươi cười cho các máy quay thu hình; chẳng hạn về một buổi ghi hình truyền hình, những khán giả xem truyền hình đã bị yếu tố hình ảnh của tổng thống chi phối hơn là câu chuyện thật về buổi thu hình đó.[44] Một người chỉ trích viết rằng hình ảnh của John F. Kennedy được diễn tã hư cấu một cách thận trọng với đầy đủ chi tiết nhằm “vẽ ra một huyền thoại” có liên quan đến sự kiện PT 109[45] và tuyên bố rằng Kennedy đã hiểu cách sử dụng hình ảnh để nâng cao tham vọng tổng thống của mình.[46] Ngay cả tang lễ tổng thống cũng được sắp đặt cẩn thận với giá trị năng suất cao nhằm tạo ra một cảm xúc về “uy quyền đế vương”.[47] Kết quả là người Mỹ có những kỳ vọng không thực tiển từ tổng thống, người được kỳ vọng “lèo lái nền kinh tế, chế ngự kẻ thù, dẫn dắt thế giới tự do, an ủi nạn nhân lốc xoáy, làm lành hồn quốc gia và bảo vệ người mượn nợ chống lại những loại tiền phí ẩn hình mà các loại thẻ tín dụng áp đặt.”[48]Chi tiêu thâm thủng Trong suốt 100 năm qua, ít có vị tổng thống nào tinh thông trong việc kiềm chế mức chi tiêu nằm trong giới hạn. Các tổng thống hứa hẹn kiểm soát chi tiêu nhưng trên thực tế đã khó kiểm soát nổi ngân sách.[49] Mô hình lịch sử dài hạn đối với việc chi tiêu của chính phủ Hoa Kỳ là có chút ít thặng dư trừ khi quốc gia gặp phải suy soái kinh tế hay chiến tranh, và mô hình này đã kéo dài cho đến thập niên 1980.[50] Tổng thống Ronald Reagan đã làm gia tăng thâm thủng chi tiêu rất đáng kể trong lúc quốc gia không bị khủng hoảng kinh tế hay chiến tranh, và những thâm thủng ngân sách này, tính theo phần trăm GDP, tăng lên từ 1,6% năm 1979 đến 4,0% và 6,0% trong phần lớn thập niên 1980[51] mặc dù có một thời gian dài bốn năm có thặng dư, bắt đầu từ năm 1998 trong thời Tổng thống Bill Clinton và Tổng thốngGeorge W. Bush. Sau sự kiện 11 tháng 9, chi tiêu thâm thủng trở lại dưới thời Tổng thốngBush và giữ ở mức độ cao.[51]Năm 2009, văn phòng ngân sách ước tính tổng số nợ liên bang sẽ lên đến $12 ngàn tỉ đô la, trong đó gồm có $565 tỉ đô la tiền lời phải trả, hay 4 phần trămGDP.[52] Trong 1 thập niên đầu của thế kỷ 21, $632 tỉ đã được thêm vào ngân sách.[53] Năm 2009, theo ước tính, Hoa Kỳ có thể bị bắt buộc mượn nợ gần $9,3 ngàn tỉ trong vòng 10 năm tới.[54] Một người chỉ trích đồng thời cũng là một thượng nghị sĩ cảnh báo rằng điều này “gần như tạo ra một kịch bản mà trong đó quốc gia này sẽ lâm vào tình trạng phá sản.”[54] Năm 2009, Tổng thống Barack Obamathừa kế 1 ngân sách thâm thủng choáng váng lên đến 10%GDP.[51] Mức độ cao những việc làm liên bang được mang đến từ chương trình New Deal của Tổng thống Franklin D. Rooseveltvẫn được duy trì ở mức độ đều so với sự tăng trưởng dân số và kinh tế. Thí dụ, năm 1962 có khoảng 13,3 nhân công liên bang cho mỗi 1000 người trong khi đó vào năm 2007 chỉ có 8,7 nhân công liên bang cho mỗi 1000 người, tổng cộng giảm khoảng 1 triệu việc làm.[55] Dù vậy, tổng số nhân sự liên bang năm 2007 là 4.127.000 làm việc trong các cơ quan của chính phủ liên bang. Ngoài ra, con số nhân viên làm việc cho tiểu bang và chính quyền địa phương đã tăng gấp đôi kể từ thập niên 1960.[55]
Chi tiêu của chính phủ liên bang từ năm 1940–nayThập niênChi tiêu tính theo % GDPThặng dư (+) hay Thâm thủng (-)?1940 -9,67 Thâm thủng
1950 -0,39 Thâm thủng
1960 -0,79 Thâm thủng
1970 -2,37 Thâm thủng
1980 -3,93 Thâm thủng
1990 -2,16 Thâm thủng
2000 -1,62 Thâm thủng
Ghi chú: Thâm thủng lớn nhất là thời Đệ nhị Thế chiến. 1998–2002 có thặng dư. Để cho ngắn gọn, các con số hàng năm được kết hợp lại thành con số trung bình cho 10 năm. Nguồn: Sở thống kê Chính phủ Hoa Kỳ.[50]Quyền lực đối với lập pháp và ngân sách Một số người chỉ trích tố cáo rằng các tổng thống đã lấn chiếm nhiều quyền lực quan trọng thuộc lập pháp và ngân sách mà thông thường phải thuộc về Quốc hội Hoa Kỳ. Tổng thống kiểm soát một số lượng lớn các cơ quan liên bang đặc trách việc tạo ra những qui định luật lệ nhưng chỉ có ít sự theo dỏi của quốc hội. Một người chỉ trích khác tố cáo rằng tổng thống có thể bổ nhiệm một “đội quân gồm nhiều ‘sa hoàng’ ảo – những người này hoàn toàn không có trách nhiệm gì với Quốc hội nhưng được giao phó nhiệm vụ dẫn đầu những nỗ lực về chính sách lớn của Tòa Bạch Ốc”.[56] Các tổng thống đã bị chỉ trích vì thực hiện những tuyên bố bằng văn thư để giải thích họ hiểu một đạo luật ra sao hay có kế hoạch gì để thực thi đạo luật này (signing statements) khi ký các đạo luật quốc hội. Những người chỉ trích diễn tả hành động này là ngược lại tinh thần của Hiến pháp Hoa Kỳ.[57] Những tuyên bố bằng văn thư như thế “làm lật cán cân quyền lực giữa Quốc hội và Tòa Bạch Ốc một ít theo chiều có lợi cho ngành hành pháp”[58] và chúng đã được bốn tổng thống trước đây sử dụng.[59][60] Hành vi này bị Hội Luật sư Mỹchỉ trích là bất hợp hiến.[61] Một người chỉ trích là George F. Will nhận thấy “một ngành hành pháp càng ngày càng phình to ra” và “sự lu mờ của Quốc hội”. Ông cho rằng diễn biến này đã và đang tiếp tục kéo dài “hàng thập niên”[62] và ông cũng đã chỉ trích “sự lu mờ” của Quốc hội.[62]Lạm quyền Đôi khi các tổng thống dùng đến các hoạt động ngoài pháp chế và bất hợp pháp, đặc biệt là trong thời chiến. Tổng thống Abraham Lincoln đã đình chỉ luật bảo hộ giam giữ (habeas corpus) trong thời Nội chiến Hoa Kỳ;[63] Woodrow Wilson tống giam những phần tử tình nghi là cộng sản mà không đưa ra xét xử trong vụ bố ráp Palmer;[63] vàFranklin Roosevelt giam cầm trên một trăm ngàn người Mỹ gốc Nhật trong thời Đệ nhị Thế chiến.[63] Franklin D. Roosevelt sử dụng những nhà điều tra liên bang để nguyên cứu hồ sơ tài chính và thuế của những nhà chính trị đối lập.[64] Trong một nỗ lực nhằm ngăn ngừakhủng bố, George W. Bush cho phép nghe lén trên hệ thống điện thoại mà không cần lệnh từ tòa án. Hành động này[65] cũng như việc tra trấn và từ chối quyền pháp lý của những người bị giam giữ đã bị tòa án liên bang phán quyết là vi hiến.[66] Richard Nixon phạm vô số luật lệ khi yêu cầu một nhóm người đột nhập văn phòng của một nhà tâm lý học thuộc đảng đối lập cũng như văn phòng của Ủy ban Quốc gia Đảng Dân chủ Hoa Kỳ rồi tìm cách che dấu sự nhúng tay của Tòa Bạch Ốc qua việc mua chuộc những nhân chứng trong một sự kiện mà sau đó trở thành vụ tai tiếng Watergate.[67] Hành động của Nixon theo 1 khía cạnh nào đó đã được Alexis de Tocqueville tiên tri trong một cuốn sách xuất bản vào năm 1835 có tựa đề là Democracy in America (Dân chủ tại Mỹ). Tocqueville cho rằng sự việc tổng thống có thể tái cử là một điều nghiêm trọng đáng quan tâm vì tổng thống ra tái tranh cử sẽ bị mê ngoặc, không chỉ làm mất tính công bằng của mình mà còn dùng cả một bộ máy quốc gia đồ sộ để giúp họ tái thắng cử.[68]Phát động chiến tranh mà không có sự tuyên chiến từ Quốc hội Một số người chỉ trích tố cáo rằng ngành hành pháp đã lấn quyền tuyên chiến, vốn đã được Hiến pháp Hoa Kỳ giao phó cho Quốc hội.[69][70][71] Mặc dù trong lịch sử các tổng thống đã khởi động tiến trình tiến tới chiến tranh nhưng họ đều xin phép và nhận được lệnh tuyên chiến chính thức từ Quốc hội Hoa Kỳ trong Chiến tranh 1812, Chiến tranh Mexico–Mỹ, Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ, Đệ nhất Thế chiến, và Đệ nhị Thế chiến.[72][73] Tuy nhiên, các tổng thống đã không nhận được lệnh tuyên chiến chính thức đối với các hành động quân sự khác trong đó có sự việc Tổng thốngTheodore Roosevelt đưa quân vào Panama năm 1903,[72] Chiến tranh Triều Tiên,[72] Chiến tranh Việt Nam,[72] các vụ xâm chiếm Grenada[74] và Panama (1990).[75] Tuy nhiên dù không có sự tuyên chiến chính thức từ Quốc hội, tổng thống đã được Quốc hội chấp thuận tiến hànhChiến tranh Iraq lần thứ nhất vào năm 1991[76][77] và Chiến tranh Iraq lần thứ 2 năm 2003[78][79] Năm 1993, một người chỉ trích viết rằng “Quyền tuyên chiến của Quốc hội đã trở thành điều khoản bị xem thường rỏ ràng nhất trong Hiến pháp Hoa Kỳ.”[80]Ưu thế bầu cử của đương kim tổng thống Các đương kim tổng thống tìm cách tái cử cho nhiệm kỳ 2 đều có lợi thế hơn đối thủ của mình,[81] và những người chỉ trích tố cáo rằng đều này là không công bằng. Từ năm 1936, trong 13 lần bầu cử tổng thống có đương kim tổng thống ứng cử thì đã có đến 10 lần đương kim tổng thống thắng cử và đối thủ chỉ thắng có 3 lần (xem bản dưới đây). Các đương kim tổng thống tái tranh cử luôn có được lợi thế mà đối thủ của họ không có, trong đó phải kể đến quyền lực dẫn dắt giới truyền thống đưa tin nhiều hơn và gây ảnh hưởng với những sự kiện cũng như sử dụng nhiều nguồn tài trợ của chính phủ.[82] Một thông tín viên ghi nhận rằng “gần như tất cả đương kim tổng thống đều gây quỹ nhiều hơn đối thủ của mình”. Điều này đã mang lợi thế hơn cho những đương kim tổng thống.[83] Ủy ban hành động chính trị trao phần lớn số tiền của họ cho các đương kim tổng thống vì họ là những người dễ thắng cử hơn.[84] Một nhà dự báo chính trị cho rằng nên cộng thêm 5 phần trăm số điểm vào trong kết quả tái cử khả dĩ của một đương kim tổng thống cho dù các tình huống như sự phát triển kinh tế và lạm phát có thể làm ảnh hưởng đến kết quả bầu cử.[85][86]
Các cuộc bầu cử tổng thống từ năm 1936 có đương kim tổng thốngNămỨng viênPhiếu bầuỨng viênPhiếu bầuThắng cửGhi chú1936 Roosevelt 523 Landon 8 Đương kim [87]
1940 Roosevelt 449 Willkie 82 Đương kim [88]
1944 Roosevelt 432 Dewey 99 Đương kim [88]
1948 Truman 303 Dewey 189 Đương kim [88]
1956 Eisenhower 457 Stevenson 73 Đương kim [88]
1964 Johnson 486 Goldwater 52 Đương kim [88]
1972 Nixon 520 McGovern 17 Đương kim [88]
1976 Carter 297 Ford 240 Đối thủ [88]
1980 Reagan 489 Carter 49 Đối thủ [88]
1984 Reagan 525 Mondale 13 Đương kim [88]
1992 Clinton 370 GHW Bush 168 Đối thủ [88]
1996 Clinton 379 Dole 159 Đương kim [88]
2004 GW Bush 286 Kerry 252 Đương kim [89]
Ghi chú: các cuộc bầu cử không có sự tham dự của ứng cử viên đương kim tổng thống cũng như các cuộc bầu cử có các ứng cử viên thuộc đảng thứ 3 đều không được đưa vào danh sách này. Số phiếu được ghi trên danh sách là số phiếu đại cử tri đoàn.Lạm dụng quyền ân xá Các tổng thống đã bị chỉ trích vì lạm dụng quyền lực này. Thí dụ, Gerald Ford đã ân xá người đã từng chọn mình làm phó tổng thống trước đó, Richard Nixon; Quyết định của Tổng thống Ford đã bị chỉ trích như là 1 hành động lạm dụng quyền ân xá.[90] Các tổng thống cũng bị chỉ trích vì những quyết định ân xá khá. George H W Bush ân xá cho một viên chức bị tình nghi dấu diếm các tài liệu có liên quan đến vụ tai tiếng Iran-Contra.[91] Bill Clinton đề xuất 140 lệnh ân xá trong những ngày cuối cùng còn tại chức,[92] ân xá cho những người đào phạm[92] và những người đóng góp qũy vận động tranh cử nổi tiếng.[92] George W Bush giảm án cho một nhân viên văn phòng bị truy tố vì che dấu sự dính líu của chính phủ trong vụ Valerie Plame Wilson.[93][94]Điều hành chính sách ngoại giao Vì không có bắt buộc là các ứng cử viên tổng thống phải tinh thông về ngoại giao, quân sự hay chính sách ngoại giaose và vì các tổng thống tự điều hành các chính sách ngoại giao nên chất lượng tạo ra quyết định khá khác nhau từ tổng thống này đến tổng thống khác. Nhiều đánh giá được các nhà chuyên môn về chính sách ngoại giao lập thành danh sách gồm những thành công và thất bại trong nữa thế kỷ trước. Những thành công quan trọng trong nữa thế kỷ trước gồm có việc Liên Xô sụp đổ và tránh để xãy ra Đệ tam Thế chiến[95] cũng như việc xử lý cuộcKhủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962.[96] Nhưng vô số quyết định của tổng thống đã bị chỉ trích trong đó có vụ xâm nhập Vịnh con lợn tại Cuba,[97] những chọn lựa quân sự đặc biệt,[98] trao đổi vũ khí để lấy con tin vớiIran,[99] và những quyết định khởi động chiến tranh.[99][100][101] Việc chiếm đóng theo sauChiến tranh Iraq bị chỉ trích là “không có kế hoạch một cách thê thảm” và toàn bộ chiến lược với Iraq bị gọi là một “việc tự đánh bại mình và làm cho đồng minh xa lánh”[102] Một người chỉ trích nhận thấy rằng có một chiều hướng “quân sự hóa chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ.”[103] Các tổng thống bị tố cáo là ủng hộ những nhà độc tài như quốc vương của Iran,[104]Pervez Musharraf của Pakistan,[105] và Ferdinand Marcos của Philippines.[106]Toàn bộ chiến lược có liên quan đến Trung Đông bị chỉ trích[107] cũng như việc xử lý vấn đề Bắc Hàn[107] vàIran.[108] Những người chỉ trích đã tố cáo rằng nền chính trị lưởng đảng đã can thiệp vào chính sách ngoại giao.[109]
Địa vị
Tổng thống Hoa Kỳ là viên chức chính trị cao nhất tại Hoa Kỳ xét về mặt ảnh hưởng và công nhận. Vì địa vị của Hoa Kỳ trong vai trò siêu cường duy nhất còn lại trên thế giới nên Tổng thống Hoa Kỳ thường được xem là cá nhân quyền lực nhất trên thế giới[110] và được gọi theo thông lệ là Nhà lãnh đạo của Thế giới Tự do.
Dưới Đây Là Danh Sách Và Tiểu Sử và Công Nghiệp Của 44 Đời Tổng Thống Hoa Kỳ
2. John Adams
4. JamesMadison
5. James Monroe
10. John Tyler
11. James K.Polk
12. ZacharyTaylor
13. MillardFillmore
14. FranklinPierce
15. JamesBuchanan
16. AbrahamLincoln
17. AndrewJohnson
18. Ulysses S.Grant
20. JamesGarfield
21. Chester A.Arthur
22. GroverCleveland
23. BenjaminHarrison
24. GroverCleveland
(tái nhiệm)
25. William McKinley
27. William H.Taft
28. WoodrowWilson
29. Warren G.Harding
30. CalvinCoolidge
31. HerbertHoover
33. Harry S.Truman
35. John F.Kennedy
36. Lyndon B.Johnson
37. RichardNixon
38. Gerald Ford
39. Jimmy Carter
40. RonaldReagan
41. George H. W.Bush
42. Bill Clinton
43. George W.Bush
44. Barack Obama
Nhận xét
Đăng nhận xét