Chuyển đến nội dung chính

PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN XANH NHÌN TỪ ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG VÀ NHỮNG ĐỀ XUẤT CHO DIỄN ĐÀN KINH TẾ BIỂN VN 2014 TẠI PHÚ QUỐC[1]

                                                                                                                 Trần Hữu Hiệp
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có diện tích gần 40 nghìn km2, dân số khoảng 18 triệu người, có hơn 340 km đường biên giới trên bộ giáp Campuchia, là khu vực duy nhất của cả nước tiếp giáp Biển Đông và Biển Tây với bờ biển dài 750 km, chiếm 23% chiều dài bờ biển cả nước; hơn 360 ngàn km2 vùng biển và đặc quyền kinh tế, có gần 200 đảo và quần đảo, đặc biệt là đảo Phú Quốc lớn nhất Việt Nam. ĐBSCL có tiềm năng to lớn phát triển kinh tế biển và là một trong số ít vùng trên thế giới có lợi thế đặc biệt về sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng và đánh bắt thuỷ, hải sản; một trung tâm sản xuất hàng hoá lớn trong chuỗi cung ứng nông sản toàn cầu.

1.    Kinh tế biển xanh, góc nhìn từ vùng ĐBSCL
Chúng ta đều biết, kinh tế biển khác với kinh tế nông nghiệp về tổ chức thực hiện, triển khai, đặc biệt là công tác chuẩn bị những điều kiện cơ bản như tiềm lực khoa học, công nghệ, tài chính, ngoại giao, quân sự … Theo các chuyên gia, thì kinh tế biển bao gồm 9 lĩnh vực: (1) Dầu khí, khoáng sản, năng lượng (2) Thuỷ, hải sản (3) Vận tải biển (4) Công trình biển (5) Du lịch (6) Công nghiệp chế tạo (7) Dịch và biển (8) Nghiên cứu khoa học biển, giáo dục – đào tạo về biển (9) Phòng thủ quốc phòng – an ninh. Kinh tế biển xanh còn gắn với yêu cầu phát triển bền vững, đảm bảo môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu và nước biển dâng.
Trong phát triển kinh tế ĐBSCL, hướng ra biển là một trong 3 cánh cửa quan trọng (cùng với “cổng trời” – đường hàng không; giao thông bộ nội vùng, liên vùng mở ra hướng biên giới Tây Nam phát triển kinh tế biên mậu). Phát triển hướng ra biển Đông, khai thác lợi thế biển Tây, mà hạt nhân là đảo ngọc Phú Quốc là bước chuyển dịch căn bản cơ cấu kinh tế ĐBSCL vượt qua khỏi cái bóng của nông nghiệp lúa nước truyền thống từ ngàn đời nay.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư BCH Trung ương Đảng khoá X về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020; các tỉnh trong vùng, đặc biệt là 7/13 tỉnh, thành ven biển đã xây dựng và triển khai thực hiện Chương trình hành động về phát triển kinh tế biển; bước đầu đã tạo chuyển biến tích cực. ĐBSCL tiếp tục phát huy thế mạnh thuỷ sản, du lịch biển, đảo. Tạo dựng lợi thế thứ 2 sau nông nghiệp là công nghiệp năng lượng, khai thác tiềm năng khí, nhờ được Trung ương quan tâm đầu tư một số công trình trọng điểm trên địa bàn như: Trung tâm khí – điện – đạm Cà Mau, đường ống dẫn khí Lô B – Ô Môn dài gần 400 km, Trung tâm điện lực Duyên Hải – Trà Vinh, điện lực Long Phú – Sóc Trăng … Một số khu kinh tế ven biển như Phú Quốc – Kiên Giang, Định An - Trà Vinh, nhóm cảng biển 6 trong vùng cũng được đầu tư, nâng cấp, tạo cơ sở cho ngành hậu cần logistic. 
“Triển vọng và thách thức trong phát triển kinh tế biển xanh của Việt Nam” cũng đang đặt ra cho vùng ĐBSCL 2 vấn đề lớn. Một là, làm gì để đầu tư khai thác có hiệu quả hơn tiềm năng to lớn từ kinh tế biển? Trong đó, phải gắn được với lợi thế của vùng trọng điểm nông nghiệp số 1 của quốc gia. Hai là, để hiện thực hóa Chiến lược kinh tế biển cả nước, cần có một Chiến lược cho vùng ĐBSCL, xây dựng và hoàn thiện cơ chế liên kết hiệu quả giữa các địa phương với nhau tạo ra sức mạnh. 
2. Vùng trọng điểm nông nghiệp số 1 cả nước và kinh tế biển
Kết luận số 28-KL/TW ngày 14-8-2012 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển KT-XH và đảm bảo an ninh, quốc phòng vùng ĐBSCL, thời kỳ 2011-2020 xác định: “Xây dựng và phát triển ĐBSCL thành vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp hàng hoá theo hướng hiện đại, phát triển công nghiệp chế biến và công nghiệp phụ trợ cho nông nghiệp với tốc độ tăng trưởng cao, bền vững. Phát triển mạnh kinh tế biển. Xây dựng ngành thuỷ sản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của quốc gia có qui mô lớn, hiện đại, sức cạnh tranh cao. Phát triển mạnh ngành dịch vụ - du lịch thành ngành kinh tế then chốt của vùng. Chủ động hội nhập, hợp tác kinh tế với các nước, trước hết là các nước khu vực Đông Nam Á”. 
Quy hoạch xây dựng vùng ĐBSCL đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2050; Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập vùng kinh tế trọng điểm vùng ĐBSCL đều xác định vai trò của vùng, là «trung tâm” lớn trên 4 lĩnh vực: sản xuất lúa gạo, thủy sản; chuyển giao công nghệ sinh học, cung cấp giống, các dịch vụ kỹ thuật, chế biến và xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp; trung tâm năng lượng lớn; trung tâm dịch vụ lớn của cả nước. Kinh tế biển với các ngành chủ yếu là dầu khí, hàng hải, hải sản, du lịch biển và kinh tế hải đảo, các Khu kinh tế, KCN & KCX ven biển gắn với phát triển đô thị ven biển vùng ĐBSCL. Trong 2 ngành xuất khẩu chủ lực của nước ta là dầu khí và thủy sản, đạt kim ngạch hàng tỉ USD/năm, thì ĐBSCL đóng góp quan trọng với 52% sản lượng, khoảng 66% kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả nước.
2.1. Hai lợi thế kinh tế biển quan trọng của ĐBSCL
Cùng với những tiềm năng, lợi thế của kinh tế biển Việt Nam, vùng ĐBSCL có 2 lợi thế quan trọng. Một là, tiềm năng tự nhiên (lợi thế tĩnh) với bờ biển dài, diện tích lãnh hải thuộc chủ quyền rộng, tài nguyên, nguồn lợi tự nhiên phong phú, đa dạng (thủy sản, khoáng sản, dầu khí, cảnh quan biển, đảo …). Hai là, có vị trí địa - kinh tế - chiến lược (lợi thế động) do vùng này nằm gần tuyến hàng hải Đông - Tây, hiện diện nhiều nền kinh tế lớn của thế giới (mà hầu hết đều tham gia APEC), là một cửa ngõ quan trọng xét trên nhiều mặt, nhất là trong thời đại bùng nổ phát triển của châu Á – Thái Bình dương. Không gian phát triển của ĐBSCL không còn bó hẹp trong đất liền, được mở ra trong một không gian biển rộng lớn, kết nối với một ASEAN năng động với 600 triệu dân, trong đó ĐBSCL là tâm điểm của bán kính 500 km nối liền các thành phố lớn trong khu vực. Ngoài biển Đông, ĐBSCL có tiềm năng kinh tế biển Tây với điều kiện tự nhiên thuận lợi, không bị gió bão, có “hòn ngọc quốc gia Phú Quốc” gắn với vịnh Thái Lan, đang tạo ra thế “địa kinh tế - quân sự” mới. Hướng ra biển Tây đang mở ra một cánh cửa mới cho vùng ĐBSCL.
Mặc dù lợi thế thứ 2 - “tiềm năng động” ngày càng quan trọng trong xu thế vừa tăng cường liên kết, hợp tác, vừa xung đột lợi ích về biển trong khu vực và trên thế giới; nhưng ĐBSCL mới được đầu tư khai thác lợi thế thứ nhất. Chủ yếu là ngành kinh tế thuỷ sản, bước đầu có quan tâm đầu tư một số cảng, khí – điện, nhưng nhìn chung kinh tế biển, nhất là các khu kinh tế ven biển, vận tải biển và dịch vụ, du lịch biển, đảo còn ở trình độ thấp; đặc biệt là công tác qui hoạch yếu, điều tra cơ bản, phát triển khoa học – công nghệ biển, phòng chống thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu, nước biển dâng chưa đạt yêu cầu. “Lợi thế tĩnh” hay “lợi thế động” trong điều kiện hợp tác và cạnh tranh, chỉ được phát huy thành hiện thực khi nó được đầu tư, khai thác có hiệu quả trong một chiến lược kinh tế biển hợp lý của vùng, gắn bó máu thịt với chiến lược chung cả nước.
2.2. Ba thách thức kinh tế biển ĐBSCL
Trước những thách thức chung, vùng này còn nổi lên 3 thách thức lớn. Một là, từ hiện trạng cho thấy, cách tiếp cận phát triển kinh tế biển của ĐBSCL thời gian qua chủ yếu dựa vào tư duy, cách làm của kinh tế nông nghiệp truyền thống. Trong khi vẫn chưa giải quyết được căn cơ mối quan hệ giữa phát huy lợi thế bậc nhất về nông nghiệp (sản xuất lúa gạo, thuỷ sản, trái cây) với kinh tế biển (vận tải biển, hậu cần logistic, du lịch biển, đảo, phát triển kinh tế biển để khai thác lợi thế và phục vụ nông nghiệp …). Hai là, vấn đề qui hoạch, tổ chức không gian phát triển và đầu tư còn hạn chế. ĐBSCL là vùng giàu tiềm năng, nhưng nguồn lực đầu tư, đặc biệt là từ ngân sách và doanh nghiệp thấp, nội lực cho đầu tư phát triển thấp. Tài nguyên, nguồn lợi tự nhiên từ biển chủ yếu được “khai thác sẵn có”, nhiều rủi ro, trình độ thấp, hạ tầng yếu kém, thiếu liên kết vùng. Ba là, thách thức trước biến đổi khí hậu, nước biển dâng và yều tố “cạnh tranh phát triển” ở biển Tây, trong khu vực vịnh Thái Lan và biển Đông – ĐBSCL. Nổi lên là vai trò, vị trí của đảo Phú Quốc hướng đến một đặc khu hành chính – kinh tế trước năm 2020.     
Trong một tương lai còn xa, người đồng bằng vẫn phải tiếp tục gánh vác nhiệm vụ thiêng liêng đối với quốc gia là đảo bảo an ninh lương thực, nhưng ĐBSCL cũng có quyền và có khả năng để mở rộng cánh cửa phát triển vươn ra biển lớn, vượt lên “dấu chân” của nền nông nghiệp truyền thống để làm giàu từ biển. Không gian phát triển mới, cách tiếp cận mới, khác căn bản cách tiếp cận phát triển kinh tế “đất liền”. Tái cấu trúc mô hình tăng trưởng vùng kinh tế nông nghiệp này, cũng cần phải đặt ra việc kinh tế biển nằm ở đâu và như thế nào. Kinh tế biển ĐBSCL cần được đầu tư, khai thác gắn với chiến lược kinh tế biển của nước ta để ĐBSCL không chỉ là vựa lúa, trái cây mà còn là vùng mạnh về biển.
3. Chiến lược kinh tế biển của ĐBSCL và liên kết nội vùng, liên vùng
Thực tế đang đòi hỏi, cần có một Chiến lược kinh tế biển của ĐBSCL, gắn bó máu thịt với cả nước hơn là những chương trình hành động riêng lẻ của từng địa phương, thiếu liên kết nội vùng và liên vùng. Liên kết vùng ĐBSCL là đòi hỏi cấp bách từ thực tiễn sôi động của vùng sản xuất hàng hóa nông nghiệp lớn nhất nước, lực lượng nông dân đông đảo nhất và trình độ sản xuất hàng hóa nông nghiệp vào loại bậc nhất cả nước và tiềm năng kinh tế biển đang được mở ra phía trước. Chủ chương liên kết vùng cần một cơ chế pháp lý rõ ràng và mạnh mẽ hơn là sự “khuyến khích” hay các hình thực ký kết hợp tác lỏng lẻo giữa chính quyền các tỉnh với nhau thời gian qua. Việc liên kết cần được tổ chức theo cơ chế, mô hình liên kết hiệu quả, từ đầu tư các công trình trọng điểm vùng như cảng biển, khu kinh tế ven biển, phát triển kinh tề biển, du lịch biển đảo đến kết nối các công trình đầu tư và phá triển kinh tế biển của các tỉnh, thành, tránh đầu tư dàn trãi, lãng phí.
Tiếp cận chuỗi - hệ thống tổng thể và thể chế, chính sách: Phát triển bền vững kinh tế biển xanh ĐBSCL, cần được tổ chức triển khai một cách đồng bộ, từ chất lượng và hiệu quả đầu tư, hợp tác quóc tế, vấn đề chủ quyền, đảm bảo quốc phòng – an ninh, tăng cường liên kết vùng, liên kết chính quyền, doanh nghiệp – thị trường … Với nguồn lực có hạn, việc lựa chọn mục tiêu trọng tâm, lựa chọn điểm đột phá, khắc phục tình trạng dàn trải, phân tán trong đầu tư phát triển kinh tế biển, gây lãng phí và kém hiệu quả ...yêu cầu quan trọng hàng đầu. Cần có cơ chế, chính sách mạnh mẽ hơn cho kinh tế biển ở ĐBSCL. Cho đến nay, vẫn “chưa có gì đặc biệt” thoát ra khỏi khung chính sách khuyến khích đầu tư chung, mà điển hình rõ nhất là trường hợp của Phú Quốc. Để phát triển Phú Quốc, tạo “đòn bẩy” cho kinh tế biến của vùng, từ năm 2004, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 178/QĐ-TTg phát triển đảo Phú Quốc trở thành khu kinh tế biển đặc thù, một trung tâm giao thương, dịch vụ, du lịch tầm cỡ quốc gia, khu vực và trên thế giới; với cơ chế “được hưởng ưu đãi mức cao nhất trên cả nước được hưởng”. Nhưng qua 8 năm thực hiện, vẫn vướng cơ chế, chính sách, Phú Quốc vẫn không thể thoát ra khỏi “chiếc áo pháp lý cấp huyện” để phát triển. Đầu tư hạ tầng, nhân lực dịch vụ trên đảo vẫn rất chậm. Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo việc xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù phát riển đảo, đang hoàn tất thủ tục thành lập thành phố Phú Quốc, tiến tới xây dựng đặc khu hành chính – kinh tế Phú Quốc.   
Kết luận số 60-KL/TW ngày 16-4-2013 của Bộ Chính trị về kết quả sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Hội ghị lần thứ tư BCH Trung ương Đảng khoá X về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 đã chỉ ra một số hạn chế, yếu kém. Đó là “Kinh tế biến phát triển chưa tương xứng với tiềm năng. Công tác qui hoạch yếu, đầu tư phát triển một số ngành chưa hợp lý, qui mô hạn hẹp, nhất là ngành thuỷ sản, vận tải biển và dịch vụ. Đầu tư kết cấu hạ tầng, cảng biển dàn trải, thiếu cảng lớn có tầm khu vực và quốc tế. Du lịch biển đảo còn đơn điệu, chất lượng và hiệu quả thấp. Một sồ KCN và KCX ven biển chưa phát huy hiệu quả, chưa thành lập được đặc khu kinh tế biển mang tầm cỡ quốc tế … Thiếu cơ chế, chính sách ưu đãi để thu hút các thành phần kinh tế cùng tham gia phát triển kinh tế biển”. Và phương hướng, nhiệm vụ sắp tới được xác định là “Rà soát, điều chỉnh, bổ sung qui hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế biển. Khẩn trương xây dựng đặc khu kinh tế biển mang tầm cỡ khu vực và thế giới. Củng cố doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích thành lập doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đủ mạnh làm lực lượng nòng cốt phát triển kinh tế biển. Nghiên cứu và xây dựng các mô hình tổ chức, quản lý kinh doanh tiên tiến để phát triển kinh tế biển”. Ngoài những định hướng chung cho kinh tế biển Việt Nam, từ góc nhìn của vùng ĐBSCL, đề xuất:
Một là, ưu tiêu đầu tư, phát triển đảo Phú Quốc trở thành đặc khu hành chính – kinh tế (được xác định là 1 trong 3 khu, cùng với Vân Đồn-Quảng Ninh và Vân Phong-Khánh Hoà, 1 trong 5 khu kinh tế ven biển ưu tiên đầu tư của cả nước). Cần xác định việc xây dựng Phú Quốc thành “đặc khu kinh tế biển mang tầm cỡ quốc tế” như định hướng của Bộ Chính trị.    
Hai là, tiếp tục ưu tiên đầu tư “Tứ giác động lực” – Cần Thơ – Cà Mau – Kiên Giang – An Giang, gắn kết yêu cầu phát triển kinh tế nông nghiệp với công nghiệp, kinh tế biển, ứng phó biến đổi khí hậu và nước biển dâng; có chú ý phát triển hài hoà hành lang ven biển và các đô thị ven biển trong vùng. Phát triển toàn diện ngành hải sản, thành tiểu vùng kinh tề hải sản trọng điểm của cả nước. Xây dựng Cần Thơ thành trung tâm hậu cần logistic của vùng, Kiên Giang thành trung tâm nghề cá và dịch vụ lớn của cả nước.
Ba là, xây dựng, hoàn thiện và vận hành cơ chế tổ chức liên kết vùng ĐBSCL trong qui hoạch đầu tư phát triển, liên kết các ngành kinh tế biển, liên kết thị trường hiệu quả. Trình Thủ tướng Chính phủ ban hành cơ chế pháp lý tăng cường liên kết, hợp tác theo nhu cầu và thực chất hơn các hình thức ký kết hợp tác kinh tế giữa chính quyền các tỉnh, thành với nhau thời gian quan chủ yếu mang tính cam kết, còn nặng hình thức và theo phong trào. Từ các hình thức “liên kết nhà nước” giữa các chính quyền địa phương với nhau và với các Bộ, ngành, cần chuyển sang chủ yếu liên kết doanh nghiệp, liên kết thị trường dựa trên nền tảng lợi ích. 
4. Đề xuất cho Diễn đàn kinh tế biển Việt nam năm 2014
Mới đây, tại Diễn đàn kinh tế biển Việt Nam lần thứ 4 diễn ra tại Hà Tĩnh, nhiều đại biểu đã thống nhất đề xuất của đại diện Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ việc tổ chức Tuần lễ biển và đảo Việt Nam năm 2014 tại Phú Quốc, Kiên Giang với 3 sự kiện chính, gồm: Diễn đàn kinh tế biển lần thứ 5, Diễn đàn Thương hiệu Biển lần thứ 6 và các hoạt động hưởng ứng Ngày Môi trường thế giới (5/6/2014), Ngày Đại dương Thế giới (8/6/2014) và các hoạt động của Ngoại giao đoàn Việt Nam năm 2014. Từ qui mô cấp quốc gia hàng năm, đề xuất tổ chức có sự tham dự của đại diện các nước trong khu vực ASEAN, tổ chức quốc tế quan tâm đề chủ đề biển đảo.  







[1] Tham luận tại Diễn đàn Kinh tế biển Việt Nam lần thứ 4 diễn ra tại Hà Tĩnh, ngày 7-6-2013

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

"Tính cách người Việt theo vùng miền"

Thảo luận về "Văn hoá & tính cách con người Việt theo vùng miền" trên  Trái tim Việt Nam online . Người bắc thường ăn nói nhẹ nhàng, kín đáo, thường hay suy nghĩ sâu xa. Người miền trung thì mọc mạc, chất phác lại hay có tính cục bộ. Người miền nam thì phóng khoáng cởi mở, dễ gần.Dân miền Bắc thường thể hiện mình qua lời nói, trong bất cứ tình huống nào họ cũng đều phải nói cho được. Dân miền Trung thường thể hiện mình qua thái độ, cử chỉ, còn miền Nam thì thể hiện qua phong cách. Nói chung dân Bắc-Trung-Nam đều diễn tuồng cả, cho nên lời nói lúc thì nhẹ nhàng điềm đạm, lúc lại gắt gỏng chua ngoa, thái độ có lúc thì đằm thắm, khi thì thì lại khinh bạc, phong cách thì có lúc phóng khoáng lúc lại dè dặt... Ấn tượng bên ngoài là như thế nhưng có khi bạn cũng thấy là chẳng ai tranh cãi lý luận lại người Trung, thái độ cử chỉ của dân Bắc cũng có thể khiến bạn dè chừng, và lời nói hay thái độ của dân Nam cũng khiến bạn chạy dài... Muốn kiểm chứng thì bạn cứ bỏ ra ...

ART NUDE PHOTOS của Dương Quốc Định

Quên những bộn bề lo toan giá vàng lên xuống, giá lúa, cá tra giảm, chuyện nhà khoa học phải nói dối ... để  ngắm ảnh các em xinh đẹp. Và nếu như kết quả nghiên cứu khoa học của một bà đầm Đức  là khoa học  (không như ta nói dối nhiều quá):  DÒM VÚ PHỤ NỮ TĂNG TUỔI THỌ     (Blog này đã từng có bài, nằm trong nhóm truy cập nhiều nhứt, có lẽ nhiều người đã luyện tập?) thì quý ông cũng nên tập thể dục con mắt một tí nhé. Xin mượn mấy tấm ảnh của nhà nhiếp ảnh Dương Quốc Định làm  dụng cụ luyện tập, ai có điều kiện thì xài hàng thật. Bộ sưu tập những bức ảnh khỏa thân và bán khỏa thân nghệ thuật của nhiếp ảnh gia trẻ Dương Quốc Định. Rất nhiều ảnh trong bộ sưu tập này đã đoạt những giải thưởng quốc tế uy tín. Cảm ơn tác giả đã chia sẻ tác phẩm trên internet. Mời bạn xem qua phần thể hiện bộ sưu tập trên PPS của chúng tôi. Link PPS:  http://vn.360plus.yahoo.com/nns-nguyennamson/article?new=1&mid=112 Chân dung Dương Quốc Địn...

Nhớ Cần Thơ phố

Trần Hữu Hiệp B áo Dân Việt So với Thăng Long - Hà Nội ngàn năm văn hiến, cố đô Huế trầm tư hay Sài Gòn phố nhộn nhịp, thì Cần Thơ phố mang đậm đặc trưng sông nước miệt vườn. Nơi đó, hàng ngày, người Tây Đô vẫn đang sống cuộc đời bình dị. Nhớ thời học phổ thông, nhà tôi chỉ cách trung tâm Cần Thơ 20 Km, nhưng mãi đến năm 15 tuổi, lần đầu tiên mới được đến Cần Thơ cùng đội học sinh giỏi của Trường cấp III Ô Môn dự thi. Đêm, mấy thằng nhà quê lang thang, lạc đường trên phố Hòa Bình, thời đó là một  đại lộ mênh mông trong mắt nhìn bọn trẻ nhà quê chúng tôi. Ký ức Cần Thơ phố trong tôi một thời còn vang qua giọng ngâm của ai trong đêm tĩnh lặng nơi con hẻm nhỏ, bài thơ Tình trắng của Kiên Giang – Hà Huy Hà: “Cần Thơ, ơi hỡi Cần Thơ/Bóng dáng ngày xanh phủ bụi mờ/Ai nhặt giùm tôi bao kỷ niệm” … Và thơ tôi, tuổi học trò: “Ai đặt tên em tự bao giờ/Người đời hai tiếng gọi Cần Thơ/Mỗi lúc đi xa ta nhớ quá/Gặp lại hình em tron...