Chuyển đến nội dung chính

Khoa học và công nghệ vùng ĐBSCL: Cần cơ chế liên kết rõ ràng và hiệu quả

Liên kết nghiên cứu và chuyển giao KHCN vùng đồng bằng sông Cửu Long được đề cập khá nhiều. Ai cũng nhận thấy liên kết là giải pháp cần thiết để giúp khu vực này ứng phó với biến đổi khí hậu, phát triển tam nông... Tuy nhiên, ai đứng ra liên kết, liên kết như thế nào và cơ chế ra sao… đang là những vấn đề còn bỏ ngỏ...

Thành quả từ ứng dụng KHCN

KHCN phục vụ nông nghiệp cần liên kết vùng (Ảnh: hiepcantho)
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là nơi xuất khẩu gạo, thủy sản và trái cây chủ lực của cả nước (chiếm hơn 50% về giá trị và sản lượng), có vai trò quan trọng trong an ninh lương thực, phát triển KT - XH của đất nước.
Giai đoạn 2006 - 2010, hoạt động KHCN đã phục vụ có hiệu quả cho sự phát triển của vùng ĐBSCL. Những kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đã giúp các địa phương thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, cho năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao. Nhờ ứng dụng những thành tựu KHCN, ĐBSCL đã phát triển mạnh những sản phẩm có lợi thế cạnh tranh như lúa gạo, cây ăn quả, sản xuất giống và nuôi trồng thủy sản.
Việc nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ KHCN đã đóng góp 30% giá trị gia tăng trong tăng trưởng nông nghiệp ĐBSCL. Các nhà khoa học đã lai tạo được nhiều giống cây trồng mới có năng suất, chất lượng tốt, thích nghi với những vùng đất có điều kiện canh tác 3 vụ/năm, có khả năng chịu phèn, thích ứng đất nhiễm mặn, đưa năng suất hiện nay đạt trên 52 tạ/ha. Với 69 giống lúa mới được gieo trồng trên diện tích 1,63 triệu ha đất canh tác ở vùng ĐBSCL cho năng suất tăng hơn các giống cũ 10% (bình quân đạt 4,8 tấn/ha trở lên), góp phần tăng sản lượng thêm 500.000 đến 790.000 tấn, làm lợi cho nông dân nhiều trăm tỷ đồng.
Các tỉnh ĐBSCL hiện đã làm chủ công nghệ sản xuất giống cá rô phi đơn tính đực, cá tra, cá ba sa, với năng lực sản xuất 12 tỷ cá bột/năm; làm chủ công nghệ sản xuất tôm giống, với sản lượng khoảng 25 tỷ con/năm; sản xuất giống cá giò, cá vược, cá song, cá hồng, cua biển, ốc hương, bào ngư… phục vụ nuôi trồng thủy sản.
Từ thành công trong nghiên cứu, làm chủ các công nghệ sản xuất các loại giống thủy sản đã mở ra các nghề nuôi thủy sản mới, tạo cơ sở cho việc hình thành chương trình xuất khẩu các loại thủy sản với triển vọng đạt tổng giá trị 500 triệu USD/năm và tiết kiệm khoảng 100 triệu USD/năm tiền nhập con giống. Việc chuyển giao, ứng dụng công nghệ trong công nghiệp chế biến bảo quản nông – thủy sản cũng từng bước được đầu tư và có bước phát triển mạnh mẽ.

Cần cơ chế liên kết

Mặc dù có vị trí, vai trò to lớn như vậy nhưng hiện nay, ĐBSCL chưa được đầu tư nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống các cơ sở luận cứ khoa học, nghiên cứu và ứng dụng công nghệ đồng bộ, hiện đại để khai thác tiềm năng, phát huy lợi thế. Đồng thời đưa ra các phương án, giải pháp KHCN hiệu quả phục vụ quy hoạch, phát triển KT-XH; ứng phó với biến đổi khí hậu mà theo cảnh báo khu vực này sẽ chịu tác động nặng nề.
Theo các chuyên gia, để ĐBSCL phát triển vững chắc thì một trong những yếu tố cơ bản là cần xây dựng những cơ chế liên kết hữu hiệu và khung pháp lý đặc thù. Phó giám đốc Sở KH-CN Cần Thơ Nguyễn Ý Nguyện cho rằng, việc hình thành chương trình liên kết là cần thiết và nó sẽ mở ra hướng mới cho ĐBSCL, nhưng cần có một cơ chế rõ ràng. Tuy nhiên, theo bà Nguyện, cái khó nhất ở đây là cơ chế phối hợp, trước đây Cần Thơ có làm chương trình về cây ăn quả đối với các tỉnh trong vùng, nhưng cái khó khăn lớn nhất vẫn là thanh toán quyết toán, hiện nay phân cấp tài chính cấp vùng không có, từng địa phương phải chi riêng theo Luật Ngân sách nhà nước. Do đó kinh phí cấp ra phải hoạt động trên địa bàn từng tỉnh, chứng từ tỉnh đó phải lưu giữ. Vì vậy nếu đưa ra một đề tài mà cần huy động nguồn kinh phí từ các địa phương thì ai sẽ là người giữ nguồn kinh phí này?… Hay về các lĩnh vực liên kết cũng cần phải bàn nhiều như về sinh thái không phải tất cả các địa phương trong vùng đều giống nhau, về lĩnh vực môi trường, biển, con giống chất lượng… cũng như vậy, vì thế liên kết như thế nào rất cần một nghiên cứu chung.
Giám đốc Viện Nghiên cứu phát triển ĐBSCL - Ts Nguyễn Văn Sánh nhấn mạnh, liên kết vùng là cơ hội rất lớn để nghiên cứu và chuyển giao KHCN có chiến lược, có trọng tâm và trọng điểm nhằm hỗ trợ chương trình tam nông địa phương và vùng hiệu quả hơn... Tuy nhiên, vấn đề đang đặt ra hiện nay là điều kiện nghiên cứu khoa học còn rất hạn chế. Việc ứng dụng khoa học còn gặp một số khó khăn do sự gắn kết từ viện, trường, cơ quan nghiên cứu chưa chặt chẽ. Một số kết quả nghiên cứu khoa học đã nghiệm thu nhưng chưa ứng dụng vào thực tiễn. Bên cạnh đó là khó khăn về nguồn lực khoa học và cơ chế quản lý khoa học.
Ts Nguyễn Văn Sánh cho rằng, cần có sự lồng ghép giữa những chương trình nghiên cứu khoa học để tránh trùng lắp. Mỗi chương trình đó phải làm sâu, có địa chỉ cụ thể, ứng dụng cho từng địa phương cụ thể. KHCN là nền tảng cho những ứng xử khác. Do vậy, khi nói đến liên kết 4 nhà (nhà nước, nhà khoa học, doanh nghiệp, nông dân) thì phải có chủ đề, có chương trình mục tiêu của Nhà nước, phải có giá trị khoa học thì mới ứng dụng được. Muốn vậy, điều đầu tiên phải có liên kết vùng. Và để thực hiện liên kết vùng cần phải có sự liên kết giữa các bộ, ngành Trung ương với các tỉnh, thành, sự liên kết giữa doanh nghiệp với nông dân và có vai trò của nhà khoa học.
Liên quan đến vấn đề này, được biết, Bộ KH-CN đã xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ cho phép thực hiện chương trình nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ đối với ĐBSCL một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng, ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng… Theo đó, những kết quả nghiên cứu từ chương trình sẽ là cơ sở quan trọng tạo sự gắn kết bền chặt, hướng tới mục tiêu chung - vì ĐBSCL phát triển bền vững và thịnh vượng.
Trần Hồng - Phương Nga

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

"Tính cách người Việt theo vùng miền"

Thảo luận về "Văn hoá & tính cách con người Việt theo vùng miền" trên  Trái tim Việt Nam online . Người bắc thường ăn nói nhẹ nhàng, kín đáo, thường hay suy nghĩ sâu xa. Người miền trung thì mọc mạc, chất phác lại hay có tính cục bộ. Người miền nam thì phóng khoáng cởi mở, dễ gần.Dân miền Bắc thường thể hiện mình qua lời nói, trong bất cứ tình huống nào họ cũng đều phải nói cho được. Dân miền Trung thường thể hiện mình qua thái độ, cử chỉ, còn miền Nam thì thể hiện qua phong cách. Nói chung dân Bắc-Trung-Nam đều diễn tuồng cả, cho nên lời nói lúc thì nhẹ nhàng điềm đạm, lúc lại gắt gỏng chua ngoa, thái độ có lúc thì đằm thắm, khi thì thì lại khinh bạc, phong cách thì có lúc phóng khoáng lúc lại dè dặt... Ấn tượng bên ngoài là như thế nhưng có khi bạn cũng thấy là chẳng ai tranh cãi lý luận lại người Trung, thái độ cử chỉ của dân Bắc cũng có thể khiến bạn dè chừng, và lời nói hay thái độ của dân Nam cũng khiến bạn chạy dài... Muốn kiểm chứng thì bạn cứ bỏ ra

ART NUDE PHOTOS của Dương Quốc Định

Quên những bộn bề lo toan giá vàng lên xuống, giá lúa, cá tra giảm, chuyện nhà khoa học phải nói dối ... để  ngắm ảnh các em xinh đẹp. Và nếu như kết quả nghiên cứu khoa học của một bà đầm Đức  là khoa học  (không như ta nói dối nhiều quá):  DÒM VÚ PHỤ NỮ TĂNG TUỔI THỌ     (Blog này đã từng có bài, nằm trong nhóm truy cập nhiều nhứt, có lẽ nhiều người đã luyện tập?) thì quý ông cũng nên tập thể dục con mắt một tí nhé. Xin mượn mấy tấm ảnh của nhà nhiếp ảnh Dương Quốc Định làm  dụng cụ luyện tập, ai có điều kiện thì xài hàng thật. Bộ sưu tập những bức ảnh khỏa thân và bán khỏa thân nghệ thuật của nhiếp ảnh gia trẻ Dương Quốc Định. Rất nhiều ảnh trong bộ sưu tập này đã đoạt những giải thưởng quốc tế uy tín. Cảm ơn tác giả đã chia sẻ tác phẩm trên internet. Mời bạn xem qua phần thể hiện bộ sưu tập trên PPS của chúng tôi. Link PPS:  http://vn.360plus.yahoo.com/nns-nguyennamson/article?new=1&mid=112 Chân dung Dương Quốc Định Dương Quốc Định  sinh năm 1967,

Nhớ Cần Thơ phố

Trần Hữu Hiệp B áo Dân Việt So với Thăng Long - Hà Nội ngàn năm văn hiến, cố đô Huế trầm tư hay Sài Gòn phố nhộn nhịp, thì Cần Thơ phố mang đậm đặc trưng sông nước miệt vườn. Nơi đó, hàng ngày, người Tây Đô vẫn đang sống cuộc đời bình dị. Nhớ thời học phổ thông, nhà tôi chỉ cách trung tâm Cần Thơ 20 Km, nhưng mãi đến năm 15 tuổi, lần đầu tiên mới được đến Cần Thơ cùng đội học sinh giỏi của Trường cấp III Ô Môn dự thi. Đêm, mấy thằng nhà quê lang thang, lạc đường trên phố Hòa Bình, thời đó là một  đại lộ mênh mông trong mắt nhìn bọn trẻ nhà quê chúng tôi. Ký ức Cần Thơ phố trong tôi một thời còn vang qua giọng ngâm của ai trong đêm tĩnh lặng nơi con hẻm nhỏ, bài thơ Tình trắng của Kiên Giang – Hà Huy Hà: “Cần Thơ, ơi hỡi Cần Thơ/Bóng dáng ngày xanh phủ bụi mờ/Ai nhặt giùm tôi bao kỷ niệm” … Và thơ tôi, tuổi học trò: “Ai đặt tên em tự bao giờ/Người đời hai tiếng gọi Cần Thơ/Mỗi lúc đi xa ta nhớ quá/Gặp lại hình em trong giấc mơ …”.   Nhớ Cần Thơ phố thời bao